“Tiên sinh náu tiếng chốn sơn lâm,
Hiền chúa ân cần muốn tới thăm.
Cá đến Nam Dương rào nước quẫy,
Rồng bay Tây Thục đổ mưa rầm.
Sụt sùi giọt ngọc trao con đỏ,
Gắng gỏi lòng son trả nghĩa thâm.
Hai biểu xuất sư còn để lại,
Khiến người coi thấy lệ đầm đầm…“
(Bạch Lạc Thiên)
Thời Tam Quốc, Lưu Bị vì muốn mời Gia Cát Lượng xuất sơn phò tá mà đã ba lần viếng thăm lều cỏ, lưu lại một điển cố sáng rỡ muôn đời.
Nhiều người cho rằng Gia Cát Lượng xuống núi là để thỏa chí dẹp loạn yên dân, khuông phò nhà Hán; sau này, ông sáu lần mang quân ra Kỳ Sơn phạt Nguỵ, cuối cùng bệnh chết ở gò Ngũ Trượng khi chí nguyện chưa thành, ôm nỗi tiếc hận thấu trời xanh. Bài viết này xin mạn phép đưa ra một góc nhìn khác, một cách lý giải khác về lý do xuất sơn của Gia Cát Lượng. Đây chỉ là thiển ngộ của bản thân người viết, mong được độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Trong lần đầu tương ngộ giữa Lưu Bị và Gia Cát Lượng, La Quán Trung miêu tả dung mạo của Khổng Minh như sau:
“Huyền Đức thấy Khổng Minh mình cao tám thước, mặt đẹp như ngọc, đầu đội khăn lượt, mình mặc áo cánh hạc, hình dáng thanh thoát như tiên”.
Tư Mã Huy từng nói: “Khổng Minh có thể so sánh với Khương Tử Nha làm nên cơ nghiệp tám trăm năm của nhà Chu và Trương Tử Phòng làm nên cơ nghiệp bốn trăm năm của nhà Hán”.
Trong lịch sử, Khương Tử Nha và Trương Tử Phòng đều là những người tu Đạo. Trước khi gặp Chu Văn Vương, Khương Tử Nha đã có 40 năm tu Đạo. Trương Lương ba lần nhặt giày ở cầu Dĩ, được Hoàng Thạch Công truyền Đạo, có thể làm thầy đế vương. Qua diện mạo thoát tục của Khổng Minh, không khó đoán rằng ông cũng là một người tu Đạo. Tu Đạo ấy không phải là vẽ bùa niệm chú, bói toán, xem phong thuỷ… vài tiểu năng tiểu thuật mà người đời biết đến; cũng hoàn toàn khác với cái gọi là “nghiên cứu kinh thư” của người hiện đại. Nó không hạn cuộc trong việc tích lũy tri thức, mà nhấn mạnh vào tu tâm dưỡng tính, thanh tâm quả dục, đạt đến cảnh giới vô vi thanh tịnh. Như trong “Giới tử thư” gửi con trai Gia Cát Chiêm, Gia Cát Lượng viết:
“Phẩm hạnh của người tài đức song toàn là dựa vào nội tâm an tĩnh, tinh lực tập trung để tu dưỡng thân tâm, dựa vào tác phong cần kiệm chất phác để bồi dưỡng đức hạnh. Không coi nhẹ danh lợi thế tục thì không thể sáng tỏ chí hướng của mình”.
Khi tâm trong sáng thì trí huệ khai mở, xuất hiện những khả năng siêu việt người thường. Khổng Minh trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, chưa ra khỏi lều tranh đã nhìn thấy trước thế thiên hạ chia ba. “Thiên văn” ở đây không phải là thiên văn học ngày nay, hoặc là dự báo thời tiết. Những người tu Đạo trong quá khứ đều biết dùng Dịch Lý để giải thích và quan sát thiên tượng, nhìn sự chuyển vần của mặt trời, mặt trăng và các vì sao mà biết được từ số phận con người cho đến hưng vong của triều đại. Một số người tu Đạo còn có công năng “túc mệnh thông”, nghĩa là có thể trực tiếp nhìn thấu quá khứ và tương lai.
Những người bạn của Gia Cát Lượng dường như cũng đều là bậc chân nhân ẩn mình, đều biết trước khí số nhà Hán sắp suy vong. Tư Mã Huy than rằng: “Ngoạ Long tuy gặp chủ, nhưng không gặp thời, tiếc lắm thay!”. Còn Thôi Châu Bình cũng nói với Huyền Đức rằng:
“Tướng quân muốn khiến Khổng Minh chuyển xoay trời đất, chắp vá càn khôn, tôi e khó lắm, chỉ uổng hơi sức mà thôi. Tướng quân chẳng nghe người ta nói: “Thuận trời thì an nhàn, trái trời thì vất vả”, “Số đã định, thì không chống lại được” hay sao?”
Gia Cát Lượng trong lịch sử quả thực là người có khả năng tiên tri. Ông để lại bộ dự ngôn nổi tiếng tên là “Mã Tiền Khoá” (nghĩa là “quẻ bói gieo trước ngựa”), bắt đầu từ thời Thục Hán, một mạch đến Trung Hoa Dân Quốc và cả về sau, phi thường chuẩn xác. Trong khóa đầu tiên của Mã Tiền Khóa, Gia Cát Lượng nói: “Vô lực hồi thiên, Cúc cung tận tụy, Âm cư Dương phất, Bát thiên nữ quỷ”. Tạm dịch: Không sức đổi Trời, Còng mình gắng sức, Âm tồn Dương phất, Tám ngàn nữ quỷ. Chữ “Bát” (八) thêm chữ “thiên” (千), chữ “nữ” (女) rồi thêm chữ “quỷ” (鬼), hợp thành một chữ “Ngụy” (魏), chính là nói Thục Hán cuối cùng bị nước Ngụy tiêu diệt.
Gia Cát Lượng sớm đã biết khí số nhà Hán đã hết, chí nguyện phục hưng nhà Hán của Lưu Bị là không thể thực hiện được, vậy sao ông vẫn quyết định xuống núi phò tá?
Có thơ rằng:
Tri kỳ bất khả hoàn thị vi,
Diễn thành trung nghĩa vạn cổ thùy.
Thị phi thành bại não hậu sự,
Bi khổ tân toan tố dữ thùy.
Tạm dịch:
Biết rằng không thể vẫn cứ đi,
Diễn vai trung nghĩa mãi khắc ghi.
Thị phi thành bại còn đâu nữa,
Buồn đau chua xót tỏ cùng mi.
(Tác giả: Minh Áo)
Người xưa có câu “Không thành công cũng thành nhân”, Gia Cát Lượng dẫu biết trước sự nghiệp phục hưng nhà Hán là không thể thành công, nhưng ông quyết định vẫn phò tá Lưu Bị để “thành nhân”, lưu lại một tấm gương lịch sử trung nghĩa, cúc cung tận tụy, một quân sư tài trí trùm đời, một thừa tướng yêu dân như con.
Sau khi Gia Cát Lượng mất, toàn dân Thục Hán rất đỗi thương tiếc, trăm họ tế cúng trong ngõ, người Nhung, Di tế cúng ngoài đồng nội. Tình hình này kéo dài suốt mấy chục năm không thôi. Tôn Tiền đời nhà Đường ghi rằng: “Gia Cát Vũ Hầu đã mất 500 năm, nhân dân từ Lưỡng Hán đến nay, vẫn ca tụng sự tích, lập miếu và tế tự ở nhiều nơi, ông đã để lại sự thương nhớ của mọi người mãi mãi khắc sâu như thế”.
Lịch sử như bánh xe xoay chuyển, hết triều đại này đến triều đại khác nối tiếp nhau; như một vở diễn lớn, màn này khép lại màn khác lại mở ra. Ví như nhà Thục Hán có thể thu phục Trung Nguyên, kéo dài bao nhiêu đời nữa, thì cũng tới lúc phải hạ màn. Cái “thành công” mà người đời thường rất coi trọng ấy, đặt vào dòng chảy cuồn cuộn của thời gian bỗng trở nên thật lẻ loi vô nghĩa biết bao! Có thơ rằng:
“Trường Giang cuồn cuộn chảy về Đông
Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng
Thịnh suy, thành bại theo dòng nước
Sừng sững cơ đồ bỗng tay không”.
(Lâm giang tiên – Dương Thận)
Tư Mã Huy, Thôi Châu Bình biết số Trời đã định, chọn sống một đời ẩn dật, bạn cùng vượn hạc, vui thú non sông. Gia Cát Lượng cũng biết số Trời đã định, nhưng chọn nhọc tấm thân chốn hồng trần, chỉ để diễn một vở kịch thổn thức ngàn năm. Tài kinh bang tế thế, mưu xuất quỷ nhập thần, nhưng sáu lần mang quân ra Kỳ Sơn đều thất bại, để nhắn nhủ với người đời sau rằng: Ý Trời khó cưỡng, con người phải hành sự thuận theo Thiên ý.
Khi Gia Cát Võ hầu tạ thế ở gò Ngũ Trượng, người nước Thục đau đớn rơi lệ, người đời sau đọc đến đoạn ấy cũng ngậm ngùi xót xa. Nhưng biết đâu, bản thân Gia Cát Khổng Minh lại mãn nguyện vì vai diễn lịch sử đã hoàn thành? Sinh mệnh trải qua luân hồi chuyển thế, nào ai hay hôm nay Khổng Minh đang ở giữa chúng ta, đang hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử của mình? Ông hẳn đã sớm biết bản thân mình “vô lực hồi thiên”, nhưng trong tương lai, sẽ có Thánh nhân xuất thế “cứu họa cứu nạn”, truyền Đại Pháp mở ra kỷ nguyên mới, như trong dự ngôn Mã Tiền Khoá mà ông đã lưu lại cho đời sau.
Theo ĐKN