Giờ thì Trần Vũ Mai không thể còn có dịp về lại với Nha Trang, cái thành phố mà anh yêu đến đau đớn. Nhưng tâm hồn anh đã mãi gắn bó với Nha Trang. Phần đời đẹp đẽ nhất của anh đã thuộc về Nha Trang.
Ngày rằm tháng giêng mùa xuân này, ngày thơ VN lần thứ 22, ngày 33 năm trước (1991) Trần Vũ Mai tự kết thúc cuộc đời, trong tôi lại cồn cào nỗi nhớ anh, nỗi nhớ Nha Trang. Không biết Nha Trang có còn nhớ anh, người con tài năng và yểu mệnh của mình, người đã trọn đời mang nặng Nha Trang trong trái tim, người đã cùng Trần Mai Ninh dựng nên tượng đài Nha Trang trong thơ ca Việt Nam, người đã tìm đến được Nha Trang với bao khát khao cháy bỏng rồi lại phải đau đớn chia tay Nha Trang trong tuyệt vọng không cùng.
Người ấy có tên là Trần Vũ Mai.
Thực ra anh tên là Vũ Xuân Mai, sinh năm 1944 tại Hà Trung – Thanh Hóa. Mai đã yêu Nha Trang từ khi còn là cậu sinh viên khóa 8 khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, qua những trang thơ của Trần Mai Ninh, thi sĩ cách mạng bất tử, người đồng hương Thanh Hóa của anh, tấm gương một thi sĩ – chiến sĩ mà anh thầm nguyện sẽ noi theo trọn đời. Thơ Trần Mai Ninh, đời Trần Mai Ninh, với anh, là một sự thức tỉnh:
Cực Nam người có nhớ chăng
Chàng thi sĩ ấy, chết năm mặt trời
Hóa thành năm sáng trong tôi
Niềm tin yêu tựa mắt người anh em.
( Nỗi nhớ Trần Mai Ninh )
Những câu thơ đầu tiên anh đọc cho chúng tôi nghe khi cùng nhau tụ hội về Trường bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ Quảng Bá- Hội Nhà văn Việt Nam 1971 –bên cạnh những câu thơ của các thi hào thế giới P.Eluya, Nezvan và của những bạn thơ từ các đô thành miền Nam vừa mới ra Bắc Trần Vàng Sao, Nguyễn Hữu Ngô, là những câu thơ kỳ diệu của Trần Mai Ninh trong bài “ Nhớ máu”:
Ơi hỡi Nha Trang
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người đã niệm đọc tên mi
Và Khánh Hòa vĩ đại
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người
Cả hồn ta sát tới…
Trong bài thơ được bạn bè coi là tuyệt bút “Thảm cỏ bờ sông Hồng” viết trong những ngày ở Quảng Bá đầu năm 1971, bài thơ chia tay Hà Nội, chia tay “những phố hè… lá đổ tinh mơ rêu phủ/những đường cong xa vời/gạch lửa phơi đỏ thắm”, chia tay“thảm cỏ bờ sông Hồng non tơ/màu cẩm thạch nghiêng nghiêng chào giã biệt”, để vào chiến trường, trong lúc tâm sự với người yêu:
Nếu ta có lỗi với em
Cũng vì ta muốn mình không có lỗi
Trước mặt em còn được tươi cười
Giọng vang và trẻ mãi
Bao giờ ta cũng chỉ là ta thôi
Mai đã nói một cách đầy tự hào về cái đích đến phía trước của mình:
Em
Nhỏ bé và trắng tinh
Trước mặt thảm cỏ dòng sông
Cầm tay một bông đại đóa
Em ạ chớ buồn
Anh vào Cực Nam đây
Từ bài thơ hết sức ấn tượng báo hiệu cho sự xuất hiện một phong cách thơ khá độc đáo trong thơ hiện đại VN, trong sự ảnh hưởng của P.Êluya và Trần Mai Ninh, Vũ Xuân Mai đã lấy họ của nhà thơ chiến sĩ đồng hương làm họ bút hiệu của mình. Và theo chính con đường của Trần Mai Ninh, con đường Nam tiến, xuyên Việt năm xưa, anh đã lên đường đến với chiến trường khu 5 ác liệt, đến với Nha Trang xa thẳm Cực Nam. Trước lúc lên đường anh đã gửi lại miền Bắc yêu thương những câu thơ vào loại hay nhất của thời thơ chống Mỹ:
Chúng tôi đi về miền Nam
Lòng nghĩ thương cây mạ
Chạy lên đê ngắm lại sông Hồng
Tháng Tư về sông Mã
Kìa ai hố khoan
Nước mắt bàn chân sóng vỗ mạn thuyền
Khu Bốn đỏ dài dải lụa
Bến Hải mềm như lá lúa
Lên bờ chân bước bâng khuâng
(Những người đã lớn)
Anh em văn nghệ giải phóng Khu 5 chúng tôi hồi ấy ai cũng ngạc nhiên vì tình yêu kỳ lạ của Trần Vũ Mai đối với mảnh đất Cực Nam, đối với Nha Trang mà anh chưa từng đặt chân tới. Vừa vào đến Khu ủy Khu 5 ở Trà Mi Quảng Nam được ít ngày, anh đã xin đi ngay về chiến trường Cực Nam. Hồi ấy Cực Nam là chiến trường gian khổ và ác liệt nhất của Khu 5 vốn đã vô cùng ác liệt. Đường vào Cực Nam lại dằng dặc và hết sức nguy hiểm. Nhưng với anh, mọi cái đều không đáng kể. Điều quan trọng nhất là được đến Cực Nam, đến được Nha Trang của anh. Và anh lại ba lô đi tiếp chặng đường xuyên Việt trong nỗi ám ảnh không dứt của cái đô thành mang tên Nha Trang:
Rồi tôi đi qua những cánh rừng
Có đêm chợp ngủ bên dòng Daksuk
Súng để gối đầu chân thì gối dép
Nghe ngọn gió nào cùng như gió Nha Trang
Tôi ngoảnh lại
Tuy Hòa rung mềm mại
Tuy Hòa vui trong gió thổi
Lúc bấy giờ
Lúc ấy
Hỡi Nha Trang
(Thành phố nghiêng mình)
Sau hơn hai tháng rõng rã hành quân tiếp trên Trường Sơn, vượt những con đường được coi là “cửa tử” 19 và 21, đến chiến khu Khánh Hòa, Mai không ở trên căn cứ, mà lặn lội về ngay với anh em đặc công nước 407 trên Hòn Rồng Cam Ranh, về với các đồng chí lãnh đạo Thành ủy Nha Trang cùng nằm hầm ở làng vùng ven Phú Ân Nam để mau được gần với Nha Trang yêu mến.
Từ Cực Nam, từ chiến trường Nha Trang Khánh Hoà, những bài thơ của Trần Vũ Mai bắt đầu vang lên khắp đất nước qua sóng của đài TNVN và đài Phát thanh Giải phóng:
Cực Nam
Gió chướng ngang trời
Gió từ Phan Rang ngược lên Đắc Lắc
Đường xuyên sơn hẳm dốc
Gió quầng vang trảng trăng thu
Một lối rẽ bất ngờ
Bạn đi Phan Thiết…
(Cực Nam)
Lúc bấy giờ
Tôi vẫn sống, em vừa ngã xuống
Tôi nhìn trời có nghĩa gì đâu
Đôi cuộn mây hồng hay ánh trăng sao
Em thường nói rồi chúng mình trẻ mãi
Tôi cầm khẩu súng em lắng nghe lần cuối
Đêm vượt đường, chim lại hót cho em.
(Thành phố nghiêng mình)
Với Những người đã lớn, Cực Nam, Thành phố nghiêng mình và sau này là trường ca Ở làng Phước Hậu, thơ Trần Vũ Mai là khúc tráng ca của thế hệ đi giải phóng và thống nhất đất nước. Trong thơ anh, hiện thực cuộc sống chiến đấu hiện lên gồ ghề trần trụi như nó vốn có. Ở đó, sự hào hùng đan xen nỗi bi thương. Ở đó hy vọng, niềm tin thực sự ánh lên từ máu lửa, từ những gian truân đau đớn tột cùng. Ở đó, không có chỗ trong những uốn éo, đồng bóng rẻ tiền, không có chỗ cho những trò chơi ngôn ngữ nhạt nhẽo. Từ những điểm nóng của cuộc chiến đấu, đối diện thường nhật lằn ranh mỏng manh giữa sự sống và cái chết, sự dũng cảm và cái đớn hèn, người trung thực và kẻ giả dối… hiểu rõ cái giá phải trả của mỗi chiến công, mỗi thắng lợi, thơ Trần Vũ Mai đã chạm được đến mạch sâu tinh thần của những người đang cầm súng vì sự tồn vong của dân tộc:
Vâng buổi đó lòng anh trong trắng lắm
Trời xanh hơn, sông rộng lớn lao hơn
Người khát vọng đi tìm mật uống
Đã tìm ra tình Tổ quốc máu hồng
Khoảng khắc gió bừng lên giữa ngực
Đã tới rồi chiến trận gớm ghê sao
Ôi Tổ quốc, trước Người con mãi thế
Để đẹp hơn trời biếc trên đầu…
(Ở làng Phước Hậu)
Nha Trang giải phóng. Cùng những cánh quân của sư đoàn 968, Trần Vũ Mai đã có mặt ở Nha Trang từ những ngày đầu tháng 4/1975.
Lúc bấy giờ
Nha Trang
Những người phá thành vây đã tới
Nha Trang nghiêng mình
Manh áo Mỹ bạc màu rơi xuống biển
Những em gái cầm chổi ra đường
Hốt rác đầy mũ lính
Thành phố hiện ra cùng ánh cờ sao
(Thành phố nghiêng mình)
Khó có thể diễn tả được niềm vui của Trần Vũ Mai khi được đặt chân lên những con đường Nha Trang mơ ước của anh. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh anh cùng các bạn bè văn học nội thành Lê Văn Ngăn, Thế Vũ, Nguyễn Hoàng Thu… dắt nhau dung dăng trên đường Trần Phú như những đứa trẻ thơ, vừa đi vừa hát thật to bài hát Giải phóng miền Nam. Đó là những ngày tuyệt đẹp trong trí nhớ của tuổi chúng tôi. Đến được với giấc mơ của mình, Trần Vũ Mai đã sống thật hết mình, thật trọn vẹn với Nha Trang. Nhiều anh em văn nghệ giải phóng Khu 5 vì mến anh đã theo anh về với Nha Trang – Khánh Hoà. Anh đã giới thiệu Thanh Hồ, Thế Vũ, Trần Huyền Ân, Nguyễn Âu Hồng, Nguyễn Hoàng Thu, Lê Văn Ngăn… vào những cơ quan văn hoá văn nghệ cách mạng. Anh chủ biên tuyển tập thơ Phú Khánh đầu tiên, sáng lập tờ Văn nghệ Phú Khánh. Anh thu hút mọi người bằng tài năng và nhiệt huyết của mình. Nhiều người dân Nha Trang yêu tài mến tình anh đã họp vào với anh em văn nghệ. Có vẻ như Trần Vũ Mai đã chuẩn bị cho một cuộc sống ổn định lâu dài với Nha Trang. Anh đã đưa người bạn gái của anh, một cô gái Sài Gòn mới thương nhau từ những ngày đầu Sài Gòn giải phóng về với căn hộ nhỏ của anh ở chung cư chợ Đầm. Em gái và em rể anh cũng đã vào Học viện Không quân. Anh chuẩn bị đưa mẹ từ Hà Nội và đón cha từ chiến trường Lào vào đoàn tụ tại Nha Trang của anh. Sau truyện ngắn xuất sắc Bậc biển Mai đã chuẩn bị rất kỹ càng cho những cuốn tiểu thuyết về tiểu đoàn đặc công nước 407, về nhà giáo liệt sĩ Nguyễn Thị Ngọc Oanh ở thị trấn Ninh Hòa…
Nhưng rồi cuộc chia tay định mệnh đã đến…
Chúng tôi thật sự hết sức bất ngờ khi biết anh quyết định từ biệt Nha Trang về lại Hà Nội. Dù biết anh vừa trải qua những chuyện riêng rất đau lòng, chúng tôi tin vào ý chí và nghị lực của anh.
Hoạ sĩ Thanh Hồ vẫn thường nói: “Trần Vũ Mai không thể sống thiếu Nha Trang, Nha Trang cũng không thể thiếu Trần Vũ Mai”.
Nhưng Trần Vũ Mai đã quyết tâm dứt áo ra đi, trở lại Hà Nội. Và đó quả là một cuộc chia tay định mệnh.
Sau này, chúng tôi mới hiểu bên trong khuôn mặt chữ điền cương nghị của anh, bên trong con người hết sức dũng cảm và sắt đá của anh, một hình ảnh tuyệt đẹp thời chiến tranh của chúng tôi, là một trái tim yếu đuối và nhạy cảm. Anh về lại Hà Nội, là một biên tập viên có uy tín hàng đầu của Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Anh vẫn làm thơ – dù không công bố nữa. Sau khi anh mất, được đọc thơ anh giai đoạn này, người ta mới biết Trần Vũ Mai vẫn đang âm thầm tìm kiếm, trong sự cô đơn, trong nỗi thất vọng mênh mông, một lối đi riêng trong thơ, rất độc đáo, rất hiện đại. Đó là những bài thơ sâu thẳm nỗi đau của người đã từng qua những thử thách lớn, những mất mát lớn nhưng vẫn tin yêu trong trẻo lạ lùng:
Nào hãy tới đây, nào em, sao vậy
Lá đổ vàng cháy cả chân em
Tình yêu nào thiếu nỗi niềm thiếu nữ
Giấc ngủ tôi che mái tóc buông rèm.
(Không đề)
Những người lính khoác ba lô trên đất nước
Gian khổ vui lòng đem ấm áp cùng chia
Chúng ta biết nói gì nữa nhỉ
Vâng, Hà Nội tuyệt vời và hơn thế
Anh tin đi dù chỉ ở một lần
(Vâng, Hà Nội)
Tuy vậy, mọi cái dường như đã trở nên bất ổn. Suốt ngày anh lanh thang khắp các quán rượu Hà Thành. Đôi mắt anh ngơ ngác mệt mỏi. Gặp anh ở Hà Nội, lúc nào tôi cũng thấy anh, cũng như thơ anh, cô đơn, lạc lõng vô cùng giữa chốn phồn hoa đô hội:
Lúc bình minh mà vắng cả sắc màu
anh nằm xuống nhìn lên kia vô vọng
anh đã hét trong phòng im cửa đóng
lúc thương người lại giận chính mình thôi…
(Viết cho tình yêu)
Xuân
quá chừng quả đấm
Ngay sau gáy phảng phất gió nặng dần
(Mùa xuân nuối tiếc)
Có lẽ anh ngột ngạt, bế tắc vì thiếu “bầu trời xanh thẳm Cực Nam”, thiếu tiếng “sóng vẫn đập vào eo biển” nôn nao thuở nào của anh chăng? Bởi vì, tuy sống giữa Hà Nội, Trần Vũ Mai vẫn không ngừng bị một Nha Trang cao xanh, lộng gió ám ảnh:
Chúng ta tới buổi chiều hè thứ nhất
Nón trắng bừng, sóng chùng lại Hồ Gươm
Các cô gái tươi cười nóng nôi nồng nhiệt
Áo choàng bay như thể bỏ quên
Những lá lá bay trên đá lát
Vâng, Hà Nội cao vần lên xanh nhạt
Cũng như trời mây lộng gió Nha Trang
(Vâng, Hà Nội)
Xa Nha Trang, nhưng Trần Vũ Mai vẫn hết lòng hết sức với Nha Trang khi có dịp. Tôi nhớ một kỷ niệm vui. Vào cuối những năm 1980, tôi ra Hà Nội họp cùng với nhà thơ Văn Công, khi ấy là thường vụ tỉnh ủy, Phó chủ tịch UBND tỉnh Phú Khánh. Biết Phú Khánh đang khó khăn trong việc tìm nhân sự lãnh đạo Hội VHNT, Trần Vũ Mai rất nhiệt tình giới thiệu hai nhà thơ Đào Xuân Quý và Nguyên Hồ, vốn người gốc Khánh Hòa và Phú Yên, đang công tác ở Hà Nội, với nhà thơ Văn Công. Với chiếc xe đạp mini cà tàng, Trần Vũ Mai đã nhiều lần đạp xe chở nhà thơ Văn Công, vốn là một người rất yêu mến anh thời cùng sống trên vùng chiến khu Phú Yên, đến thăm để vận động thuyết phục hai nhà thơ lão thành về giúp quê hương. Có lần, vì xe tuột xích và cũng vì đang ngà ngà say, Trần Vũ Mai đã quẳng ông Phó Chủ tịch tỉnh kiêm nhà thơ xuống lòng đường Chu Văn An, ngay trước Nhà khách Chính phủ…
Hiểu tấm lòng anh, lãnh đạo tỉnh Phú Khánh và Hội VHNT nhiều lần nhắn mời Trần Vũ Mai về lại Nha Trang thăm anh em, nghỉ ngơi và viết. Anh có về một hai lần nhưng mỗi lần cũng chỉ ở một hai ngày rồi vội vã ra đi như trốn chạy chính mình. Vì sao thế, anh Mai?
Lần cuối cùng, tôi gặp Trần Vũ Mai là vào mùa hè 1990. Đó là khi anh vừa được Hội Nhà văn cho đi thăm Liên xô cùng chuyến với nhà văn Nguyên Ngọc về nhưng chuyến đi hình như không đem lại cho anh chút vui vẻ gì. Lúc này trông anh xác xơ, tiều tụy, giọng nói yếu hẳn, tay run lẩy bẩy. Rượu làm anh chếnh choáng suốt ngày, nhưng khi nhắc đến Nha Trang anh như tỉnh hẳn ra. Như mọi lần, anh lại hỏi thăm về Nha Trang thật cụ thể, chân thành. Anh lại đọc cho chúng tôi nghe những câu thơ tuyệt đẹp về Cực Nam, về làng Phước Hậu, về Nha Trang của mình:
Nhớ sao giọt sáng trời xanh
Nghe chừng Phước Hậu lá cành bên môi
Nghe chừng nhẹ thoáng mưa rơi
Căn hầm thứ nhất của người vượt đêm
Và mưa vuốt mặt cuối thềm
Mẹ ngồi vắt áo dịu hiền, ngó xa
Áo vừa khô lại mưa qua
Rồi vai dần thấm lệ nhòa mẹ tôi…
Tôi nhớ những ngày tôi sống
Tôi nhớ bầu trời Cực Nam lồng lộng
Có một phần xanh thắm cho anh
Xanh thắm mãi không ngừng
Ôi nỗi nhớ lây lòng chi lạ
Thấm dần và nảy nở…
(Ở làng Phước Hậu)
Lúc đó, tôi đã linh cảm một điều chẳng lành: Trần Vũ Mai đã như một ngọn nến sắp cháy đến những giọt cuối cùng.
Một năm sau, từ Nha Trang, chúng tôi nhận được tin anh từ trần trong dòng nước lạnh dưới đáy hồ Nghĩa Đô, giữa một ngày đông giá buốt, ngay rằm tháng giêng 1991, ở tuổi 47.
Đã dũng cảm vượt qua được những thử thách nghiêm khắc và khốc liệt nhất của chiến tranh, nhưng không vượt qua được những đổ vỡ, trái ngang, oan nghiệt của đời thường, có vẻ như Trần Vũ Mai đã tự chọn cho mình một kết cục như vậy, như “những con rồng bay đến hết độ bay, chỉ còn nước rơi xuống chết” (Nguyễn Thụy Kha). Cuộc đời và cái chết của Trần Vũ Mai là một bi kịch bí ẩn của đời sống văn học sau chiến tranh.
Riêng tôi, tôi vẫn nghĩ, không biết là có đơn giản quá chăng, bi kịch đó có thể đã không xảy ra, nếu ngày đó Trần Vũ Mai đừng quyết định rời bỏ Nha Trang, rời bỏ mảnh đất Cực Nam yêu dấu của anh.
Có phải thế không, anh Mai?
NGUYỄN THẾ KHOA