Xiongnu, đế chế du mục đầu tiên ở châu Á, không để lại tài liệu nào được biết đến để giải thích nguồn gốc của họ, khiến đây trở thành một bí ẩn di truyền cổ đại hấp dẫn.
Một nghiên cứu mới đã làm sáng tỏ cách các đế chế Xiongnu và Mông Cổ cũng như các nền văn hóa Trung Á cổ đại khác hình thành và tương tác với nhau.
Các nhà nghiên cứu đã thực hiện nhiệm vụ khó khăn là tái tạo lại lịch sử di truyền 6.000 năm của Mông Cổ – bao gồm cả thời gian trỗi dậy và sụp đổ của các đế chế du mục – với một số kết quả đáng ngạc nhiên.
Một công bố của Viện Max Planck báo cáo rằng đã có một số đế chế du mục có tổ chức và có ảnh hưởng lớn cư trú ở phía đông Thảo nguyên Á-Âu giữa cuối thời kỳ đồ đồng và thời kỳ trung cổ.
Xiongnu là những người đầu tiên, có ảnh hưởng mạnh mẽ trong khu vực từ năm 209 TCN – 98 SCN. Đế chế hùng mạnh cuối cùng của những người du mục trong khu vực là đế chế Mông Cổ từ năm 916-1125 sau Công Nguyên.
Mặc dù những đế chế du mục này có những tác động đáng kể đến địa chính trị và nhân khẩu học của Âu-Á, nhưng vẫn còn những khoảng trống lớn về kiến thức về nguồn gốc của họ và mối quan hệ di truyền mà họ hình thành với những người khác trong khu vực. Đây là lý do tại sao nghiên cứu di truyền mới lại rất quan trọng.
Nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Cell là kết quả của sự hợp tác quốc tế giữa các nhà nghiên cứu từ Viện Max Planck về Khoa học Lịch sử Nhân loại, Đại học Quốc gia Mông Cổ và các tổ chức đối tác khác ở Mông Cổ, Nga, Hàn Quốc và Mỹ. Đây là một trong những nghiên cứu lớn nhất về hệ gene cổ đại phương Đông và Nội Á cho đến nay, trải qua khoảng thời gian 6.000 năm – từ 4600 trước Công nguyên đến 1400 sau Công nguyên.
Để hoàn thành nhiệm vụ, các nhà nghiên cứu viết rằng họ đã phân tích dữ liệu toàn bộ bộ gene mới của 214 cá thể từ 85 địa điểm của Mông Cổ và 3 địa điểm của Nga ở vùng Baikal. Họ kết hợp thông tin đó với dữ liệu bộ gene của 19 cá thể thời kỳ đồ đồng từ miền bắc Mông Cổ và bộ dữ liệu di truyền truy cập được trên các quần thể cổ đại sống ở các vùng lân cận của Nga và Kazakhstan. Cuối cùng, các quần thể tham chiếu hiện đại trên toàn thế giới đã được thêm vào hỗn hợp của nghiên cứu.
Điểm quan tâm đầu tiên mà các nhà nghiên cứu đề cập là sự mở rộng của những người chăn gia súc sang Mông Cổ vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên, được giới thiệu bởi nền văn hóa Afanasievo của vùng núi Altai.
Sự du nhập của chủ nghĩa du mục đã tạo ra một sự thay đổi lớn về lối sống trong khu vực, mặc dù những người di cư có ít tác động di truyền đối với những người săn bắn hái lượm ở Đông Bắc Á cổ đại (ANA) và tổ tiên phương Bắc Âu Á cổ đại (ANE) mà họ đã gặp.
Một điểm mấu chốt khác trong nghiên cứu là các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng vào cuối thời kỳ đồ đồng có ba nhóm địa lý sinh học riêng biệt sống ở tây, bắc và trung nam Mông Cổ.
Tiến sĩ Christina Warinner, trưởng nhóm nghiên cứu tại Viện Max Planck về Khoa học Lịch sử Nhân loại, giải thích ý nghĩa của khám phá này đó là sự vắng mặt của lactase tồn tại trong dân số Mông Cổ cả ngày nay và trong quá khứ đều thách thức các mô hình y tế hiện tại về tình trạng không dung nạp lactose, cho thấy tiền sử nuôi con bằng sữa phức tạp hơn nhiều. Các nhà khoa học đang chuyển sang hệ vi sinh vật đường ruột để hiểu cách quần thể thích nghi với chế độ ăn dựa trên sữa.
Ba nhóm địa lý sinh học vẫn tách biệt về mặt di truyền trong hơn một thiên niên kỷ, cho đến khi có sự xuất hiện rộng rãi của thú cưỡi ngựa, diễn ra vào cuối thiên niên kỷ thứ hai và đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
1000 năm sau nền văn hóa Afanasievo, một nhóm khác từ thảo nguyên, được gọi là Sintashta, đã đến khu vực này và mang lại những thay đổi văn hóa định mệnh cho đồng cỏ của Mông Cổ.
Theo Ancient-origins