Anh Ba Đợi – Bản anh hùng ca về âm nhạc tài tử

12:47 | 16/05/2018

Trước khi xem vở cải lương hoành tráng tại sân khấu Nhà hát Bến Thành tối 28/4/2018 vừa qua, tôi đã tiếp cận kịch bản Anh Ba Đợi của nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ. Kịch bản văn học bằng thơ 8 cảnh, khá dài nhưng có sức lôi cuốn, nên tôi đã đọc một mạch. Càng đọc tôi càng khâm phục về ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ phương Nam của tác giả, dù ông là người xứ Nghệ, thứ đến là nghệ thuật cấu trúc kịch bản, sự sắp xếp màn lớp và xây dựng hệ thống nhân vật đều hợp lý, chỉ còn một chút băn khoăn là thời lượng quá dài và đôi chỗ còn hơi kịch nói. Vì vậy mà tôi hồi hộp chờ đợi sự giải mã của người chuyển thể Hoàng Song Việt – Phạm Văn Đằng và người sáng tạo thứ hai là đạo diễn Triệu Trung Kiên và Lê Trung Thảo.

Poster vở cải lương “Thầy Ba Đợi”

Tôi đến Nhà hát Bến Thành trước giờ mở màn 15p, nhưng tưởng như không tìm được chỗ ngồi vì biển người đã phủ kín cả rạp, may quá hàng ghế đầu vẫn còn vài chỗ, tôi liền định vị gần dàn nhạc để dễ dàng tiếp cận với đêm diễn bằng nghe, nhìn. Trông hai ông bà lớn tuổi ngồi cạnh tôi, có lẽ là nghệ sĩ cải lương.

Họ nói: Lâu lắm mới có một đêm diễn cải lương lớn như thế này, vì gần đây, các rạp cải lương thường tắt đèn, vắng khách! Tôi nói: Bộ môn sân khấu dân tộc nào hiện nay cũng đều thưa vắng khán giả, nhưng khi có vở hay thì lúc nào cũng chật rạp như đêm nay không còn chỗ trống…

Nhà hát Bến Thành.

Đêm diễn bắt đầu sau lời giới thiệu rất trang nghiêm của NSND Hoàng Mai, âm nhạc cải lương tấu lên, dẫn dắt người xem dõi theo cuộc đời Anh Ba Đợi, từ cảnh nghĩa trang, nơi mộ phần của ông Ba Đợi trông thật đìu hưu buồn thảm như mộ Đạm Tiên, được diễn tả qua tiếng đàn và lời kể của người giữ mộ đã thấy xót thương cho một người tài hoa, nhưng bạc mệnh như nhạc sư Nguyễn Quang Đại (Anh Ba Đợi) giàu lòng yêu nước và yêu âm nhạc dân tộc, vì vậy mà bị giặc Pháp truy lùng.

Bối cảnh lịch sử lúc này như nhà văn Vương Hồng Sểnh viết: “Năm 1998, bổng tây thắng trận ngang (chiến tranh thế giới thứ nhất) mừng quá, toàn quyền Alleert Sarraut nới tay cho phép phe trí thức bày ra một cuộc hát lấy tiền dâng “mẫu quốc” và cho phép lập hội gánh hát để dân bản xứ lãng quên việc nước, thừa dịp đó dân trong Nam bèn trao đổi nghề đờn ca và đưa tài tử Salon lên sân khấu. Nhân cơ hội ấy, ông Năm Tú (Châu văn Tú) ở Mỹ Tho thuộc gánh của ông Andre Thận rồi sắm thêm màn cảnh, y phục và nhơ ông Trương Duy Toản soạn tuồng, đánh dấu sự ra đời của loại hình nghệ thuật cải lương”.

Lớp một như “khai từ” rồi chuyển sang đại cảnh kết hợp ánh sáng led tả cảnh vua Hàm Nghi đi đày trên con tàu buôn ở bến cảng Sài Gòn. Vua kêu gọi nhân dân tiếp tục đấu tranh. Dân chúng, trong đó có Ba Đợi lưu luyến tiễn đưa Ông vua yêu nước nên bị giặc Pháp đàn áp dã man.

Ở lớp này, nghệ sĩ Nguyễn Thành diễn vai Vua Hàm Nghi khá hay, kể cả vai Người dân yêu nước dám lên án chủ nghĩa thực dân Pháp nên bị tên lãnh binh nổ súng sát hại, xung đột kịch lên tới đỉnh điểm, khiến tôi liên hệ tới nhân vật Triệu Khắc Thường trong vở tuồng Sơn Hậu, lên án bọn họ Tạ chiếm ngôi Vua Tề nên bị Tạ Ôn Đình chém đứt đầu.

Triệu Khắc Thương nói: Bừng bừng thắm mặt/Sùng sục sôi tim/Cầm kiếm nói do min/Tạ tặc ôi kinh lão/Bớ bay – Hướng lộc nước khi nghèo chẳng báo/Chịu quyền vua thuở yếu không đền/ Chẳng bằng loại cỏ sên/Thực là loài cầm thú (Tao biết mày rồi, trong thế). Mày dốc đoạt Tề trào thổ vũ/Nên dung mưu lập tiểu giang sơn/ Đức thánh hoàng đang trị ngai vàng/Mày tiếm lễ quốc gia nhường ấy?/ (Bách quan đứng vậy à? Hãy nói cho lão nói với)/ Thảy bách quan ai nấy/Đều tiếp nhĩ giao đầu/(Các quan làm vậy à)! Nếu vậy đừng mặc giáp cầm đao/Về cải phục vận quần mang yếm/Nếu từ nơi nguy hiểm/Sao khử đặng gian tà/Cởi bao y nguyện gắng sức già/Quyết phá tiểu giang san họ Tạ.

Thiên Lăng nói: Chuyển lôi đình chi nộ/Phấn tích lịch chi uy/(Ôn Đình). Phó Ôn Đình em khá rat ay/Chém đầu gã để răn muôn chúng.

Chất bi hùng ở lớp cải lương này cũng thật hấp dẫn. Tiếp theo là cảnh nghĩa địa, ông Tư làm nghề đào huyệt và giữ mộ hai người dân tới. Họ nói chuyện với ông Tư về cảnh nghèo khổ. Đoạn này chưa có kịch nhưng các diễn viên đã cố gắng thể hiện bằng những câu hát cải lương để dẫn dắt vào những lớp gây cấn như Ba Đợi bị truy lùng, may nhờ có Ái Hoa, con gái Tổng đốc Đại Phong cho nấp vào xe ái nữ con quan được phủ kín.

Cuộc đấu khẩu giữa Ái Hoa và tên quan tây trở nên căng thẳng. Số phận của Ba Đợi  tưởng chừng như treo trên đầu sợi tóc. Xung đột kịch phát triển cao trào từ đây. Ái Hoa cứu được người nhạc sĩ tài ba và giàu lòng yêu nước, rồi đem dấu trong tư dinh của viên Tổng đốc trung thành với mẫu quốc.

Ba Đợi đóng vai thầy đàn mang tên là Danh Nam, rồi mở lớp dạy nhạc ngay trong dinh Tổng đốc Đại Phong. Cuộc trao truyền di sản của Ba Đợi tại đây thật khó khăn vì thế hệ trẻ chưa hiểu hết giá trị của âm nhạc nhân tộc! Tình yêu giữa Ba Đợi và Ái Hoa bắt đầu nảy nở, tài tử giai nhân đang mặn nồng thì bị bại lộ, khi Tổng đốc Nguyễn Phúc Châu ở tỉnh khác cùng con trai là Công Tử Hiến, gã thanh niên xấu tính ghé thăm Tổng đốc Phong. Công tử Hiến cậy thế cha cứ ngang tàng đòi cưới Ái Hoa, nếu không thuận lời thì sẽ bắt thầy đàn Danh Nam (Ba Đợi)…

Lớp tuồng này có tính hấp dẫn cao, bởi nhiều yếu tố gây cấn, xung đột tư tưởng được các nghệ sĩ thể hiện sinh động, hấp dẫn và cao điểm của kịch tình là Ái Hoa đòi tự vẫn nếu phải làm vợ công tử Hiến ngông cuồng nhưng cuối cùng phải buông xuôi số phận để cứu thầy đàn Ba Đợi… Lớp kịch tưởng chừng như ít kịch, nhưng các nghệ sĩ ưu tú Quế Trân (vai Ái Hoa), và nghệ sĩ Võ Minh Lâm (vai công tử Hiến) diễn tốt và hát hay nên cuốn hút người xem dù thời lượng gần nửa tiếng đồng hồ.

Hình ảnh của vở cải lương “Thầy Ba Đợi”. NS Quang Khải vào vai thầy Ba Đợi thời trẻ và NSƯT Quế Trân vào vai tiểu thư Ái Hoa.

Cuộc chia ly đầy nước mắt của Ba Đợi và Ái Hoa cũng được các nghệ sĩ thể hiện thật xúc động bằng lối diễn xuất dung dị có chiều sâu và hát hay. Góp phần thành công vở tuồng này là NSND Vương Hà trong vai vợ Tổng đốc Phong thể hiện rõ nét phong cách một phụ nữ quý tộc gốc Huế. Ở lớp tuồng này sân khấu như trùm trong “cung oán” gây xúc động mạnh trong người xem.

Tiếp theo là cảnh Ba Đợi ở làng quê cùng với người vợ hiền Sáu Loan tiếp tục mở lớp dạy đàn, học trò ngày càng đông, nhưng cuộc sống vẫn không buông tha người thầy đàn nghèo khổ, nợ nần chồng chất. Chủ nợ là mụ Chín Hảo đến gặp Ba Đợi không chỉ đòi nợ mà còn đại náo đòi tình…Lớp hài kịch hấp dẫn, bởi tài nghệ của NSƯT Quỳnh Hương, cô diễn gần giống như Hồ Nguyệt Cô hóa cáo trong tuồng cổ, vừa múa, vừa hát, vừa nói, vừa lăn lộn trong cơn điên ái tình.

Góp phần hấp dẫn lớp kịch này là em bé, con gái của Chín Hảo, học trò của Ba Đợi. Chỉ có việc ngăn mẹ không nên đòi nợ thầy Đàn mà em tạo nên những miếng diễn hay và ca rất ngọt ngào cùng động tác hồn nhiên nhí nhảnh, làm náo động sàn diễn và khán giả vỗ tay liên hồi. Sân khấu đang bừng bừng náo kịch thì, lão Bá người giúp việc trong dinh Tổng đốc Phong xuất hiện báo tin cho anh Ba Đợi về sự tan vở của gia đình hai viên Tổng đốc thông gia và cái chết bi thương của Ái Hoa, bởi sự bạo tàn của công tử Hiến… Lớp kịch được phục hiện khá hay, càng nghe Anh Ba Đợi càng đau lòng, mắt anh đẫm lệ, tay anh nâng tấm vải trắng quấn lên đầu miệng hát những lời gan ruột tiếc thương người tình đã mất. Ở chỗ này NSƯT Thanh Tuấn diễn tả tâm trạng đau buồn bằng những câu ca cải lương rất mùi.

Có thể nói ấn tượng mạnh nhất ở lớp tuồng này là cảnh phục hiện công tử Hiến làm nhục Ái Hoa và Ái Hoa đâm công tử Hiến rồi tự sát đã gây xúc động mạnh người xem. Hàng loạt, chuỗi hành động bằng hát, bằng múa, tạo nên một lớp tuồng vừa bi, vừa hài, bộc lộ tài nghệ của hai nghệ sĩ đầy tiềm năng là Quế Trân và Võ Minh Lâm. Khán giả vỗ tay tán thưởng liên tục.

Thế mới biết, đã, là cải lương “thứ thiệt” thì bao giờ cũng được người xem nhiệt liệt đón chào. Góp phần thành công của vở diễn là họa sĩ Doãn Bằng đã thiết kế sân khấu theo phong cách ước lệ, cách điệu truyền thống lấy cảm hứng từ cây đàn Nguyệt. Trong khi đó nhạc sĩ Trọng Đài khéo kết hợp giữa âm nhạc cải lương và sáng tác mới.

Xúc động nhất là NSƯT Mai Hoa đã hát rất hay bài thơ Gập ghềnh ngũ cung (ca khúc chủ đề của vở diễn). Câu dân ca hoa xoan tím ngõ/Những màn xướng hương khói ẩn hiện chốn cung đình vọng tiếng nhạc ngân Đinh – Lý – Trần – Lê – Nguyễn những say mê/ Điệu ngũ cung máu nhuộm trời chiều/ Đường thiên lý hoa tàn trăng khuyết/ Nước non ngàn dặm ra đi/ Đất phương nam biển rộng sông dài/Triệu triệu phù sa châu thổ bồi đắp/Những đêm trăng câu ca lay động/Trương Định, Đốc binh kiều ngạo nghễ/Kinh hồn nghịch tặc, máu đỏ tướng quân/Chấn hưng văn hiến,vun nhạc lễ/Hồn cốt cha ông mãi lưu truyền.

Để tả cho hết cảnh bão tố cuộc đời và nỗi đau của Ái Hoa, ở chỗ này đạo diễn đã sử dụng tới yếu tố điện ảnh và kỹ thuật 3D với tiếng đàn violon da diết như nói hộ tâm trạng của nhân vật Ba Đợi. Dù liên tiếp xảy ra những cảnh bão tố đau thương, nhưng thầy Ba Đợi vẫn cố duy trì việc truyền dạy âm nhạc của cha ông cho thế hệ trẻ. Cảnh rất đông học trò say sưa học nhạc đã nói lên điều đó và cũng là điểm nhấn chủ đề vở diễn.

Để thể hiện tầm tư tưởng yêu nước, yêu nhạc dân tộc của nhạc sư Nguyễn Quang Đợi, tác giả đã viết tiếp một lớp kịch tại Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn. Một cuộc họp kín, do ông Gibert Chiếu chủ trì, gồm nhiều nhân vật có tư tưởng tiến bộ bảo vệ văn hóa dân tộc, có mời ông Ba Đợi tới dự. Ở lớp này đạo diễn đã cho một cuộc hòa tấu nhạc bài Bình bán ở góc sân khấu để quán xuyến chủ đề âm nhạc tài tử cải lương.

Ở trung tâm sân khấu là những nhân vật tiến bộ sôi nổi luận bàn về cách sử dụng âm nhạc kể cả cách tân âm nhạc để có tiền mà hoạt động yêu nước. Nhưng nhạc sĩ Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi) vẫn giữ lập trường và kêu xin mọi người hãy giữ lấy hồn cốt và phẩm giá cho nhạc dân tộc, nếu làm suy thoái là đắc tội với tiền nhân. Trên sân khấu các diễn viên bằng tài diễn xuất và hát tốt nên lớp kịch chủ yếu là đối thoại, tranh luận nhưng không bị bật ra khỏi chủ đề tư tưởng yêu nước, yêu âm nhạc dân tộc của nhạc sư Nguyễn Quang Đợi.

Ở đoạn cuối cuộc đời của ông Ba Đợi dù thân xác đã mỏi mòn, nhưng hồn cốt âm nhạc dân tộc vẫn mạnh mẽ, vẫn tiếp tục trao truyền di sản của cha ông cho thế hệ trẻ tư tưởng nhân vật chính chủ đề của vở diễn vẫn phát triển lên đỉnh điểm. Đến lúc này mà bọn tây dương vẫn kéo đến truy lùng ông Ba Đợi và bắt bớ học trò của ông. Sự xuất hiện bất ngờ của công tử Hiến nay là thành viên hội đồng tư mật, giúp việc cho Thống đốc Nam kỳ.

Cảnh vua Hàm Nghi bị lưu đày sang Pháp trong “Thầy Ba Đợi”. Ảnh: Thùy Dung

Cuộc gặp giữa hai con người có hai lý tưởng khác nhau, đã từng yêu một người (Ái Hoa), qua chén rượu mà họ bộc lộ hai tư tưởng hai con người hoàn toàn đối nghịch như hai bức tranh tối sáng bằng ca cải lương, từ đó càng nâng cao tư tưởng yêu dân, yêu nước và yêu văn hóa dân tộc của Nguyễn Quang Đại…

Đây cũng là lớp khó diễn vì chủ yếu là đối thoại – hành động ngầm và mâu thuẫn tư tưởng không thể dung hòa, nhưng các nghệ sĩ bằng tài nghệ của mình đã tạo nên kịch tính và mâu thuẫn nội tâm để một lần nữa khẳng định tinh thần yêu nước, yêu âm nhạc dân tộc của nhạc sư Nguyễn Quang Đợi (Anh Ba Đợi). Các nghệ sĩ Thanh Tuấn và Võ Minh Lâm đã hút khán giả vào sân khấu bằng cách diễn đầy sáng tạo và hát hay, làm giảm bớt cảm giác kịch trong lớp cải lương này.

Một hình tượng mang ý nghĩa biểu trưng “Âm nhạc còn thì dân tộc còn” là cảnh phục hiện Ái Hoa trên màn hình cùng tiếng violon da diết đã có hiệu ứng tốt, không làm mất đi phong cách cải lương truyền thống mà còn đem tới khán giả một nét mới mà cải lương được phép thực nghiệm theo tiêu chí “cải cách cả theo chế độ lương truyền tuồng tích sánh văn minh”.

Tiếp theo là tiếng hát Ru con của một thiếu phụ diễn tả tâm trạng nhân vật Ba Đợi trong những giờ phút tàn tạ của cuộc đời. Tay ông ôm chiếc đàn thân thương, miệng ông lớn tiếng kêu gọi: “Âm nhạc là hồn cốt của cha ông không vì tiền mà làm sao mua được…” Vợ chồng ông cùng hát bài Tứ đại oán bày tỏ tư tưởng với ước nguyện của mình tới thế hệ mai sau bao quanh ông là các học trò trung thành với vị tổ sư của mình. Thật là xúc động!

Ông Ba Đợi không thể sống thêm được nữa! Cuối cùng ông đã ngồi yên tắt thở, nhưng trên tay vẫn ôm chặt cây đàn như một biểu tượng về sức sống của âm nhạc dân tộc… Sân khấu trở lại cảnh ở nghĩa trang hoang vắng, chỉ có ông Tư và một người dân kể chuyện về nhạc sư Nguyễn Quang Đợi… Hồn ma ông Ba Đợi xuất hiện NSUT Xuân Vinh đóng cùng nói chuyện với ông Ba Đợi là Tư và người học trò, nhưng không ai có thể đến gần nhau được vì đây là hồn ma là cõi tâm linh của một con người bất tử, đó là nhạc sư Nguyễn Quang Đợi-Anh Ba Đợi…

Đây cũng là thông điệp cuối cùng về sự bất tử, của quốc nhạc Việt Nam. Ở chỗ này nếu diễn tĩnh như kịch nói thì không hay lắm, dễ chùn kịch. Theo tôi, lớp này, nếu tiếp thu vận dụng cách diễn “chụp hồn ma” trong lớp tuồng “Hoàng Phi Hổ nằm miếu” của Đào Tấn thì hay hơn, gây hiệu ứng cao hơn trong kết thúc vở diễn. Đây chỉ là gợi ý của người làm nghệ thuật Tuồng.

Kết luận: Trong thời điểm nghệ thuật cải lương đang khủng hoảng khán giả, gần như hầu hết các rạp biểu diễn cải lương đều tối đèn, như quan sát của chúng tôi, cũng như các nhà nghiên cứu đều có nhận định gần giống nhau tại hội thảo: “Nhìn lại một thế kỷ phát triển của nghệ thuật cải lương ở Việt Nam (1918-2018)-vấn đề và giải pháp” tổ chức tại Tp Hồ Chí Minh ngày 28/4/2018 thì ngay tối hôm đó tại Nhà hát Bến Thành công diễn vở cải lương “Anh Ba Đợi” được hàng ngàn người hưởng ứng, hoan nghênh.

Điều đó phần nào đã chứng minh ý kiến không phải cải lương chết, mà cải lương không có kịch bản hay, không có đạo diễn giỏi và không có diễn viên thực tài như ngày xưa. Nhớ lại thời hoàng kim của cải lương, hầu hết các đoàn hát đều có kịch bản hay và diễn viên giỏi, mà người xem gọi là “ngôi sao cải lương”. Nhìn lùi xa hơn là Năm Phỉ, Phùng Há,, Út Trà Ôn, Năm Châu, Ba Du, Tám Danh, và tiếp nối là Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Thanh Nga, Thanh Tòng, Ngọc Giàu, Thanh Được, Thanh Sang… Ở miền Bắc thì có Sỹ Tiến, Sỹ Hùng, Ái Liên, Huỳnh Thái, Kim Chung, Kim Xuân, Lê Thanh, Ngọc Dư, Nguyễn Minh Thành…

Đó là những nghệ sĩ vẹn toàn, sống hết mình vì nghệ thuật cải lương không bị cơ chế thị trường chi phối, người nghệ sĩ sân khấu truyền thống trước đây luôn lấy phương châm: “Học cho chết, diễn cho sống” hát từ hơi ruột hơi gan nên được người xem ngưỡng mộ. Những vở cải lương của Trần Hữu Trang, của Phạm Ngọc Truyền, Thanh Nha, Trương Bình Tòng, Lê Duy Hạnh và một số soạn giả trước 1975… sáng tác đã sống mãi với thời gian.

Trở lại với Anh Ba Đợi, như trên tôi đã trình bày, vở cải lương đã nói lên được một vấn đề lớn là Bảo tồn Di sản Âm nhạc Quốc gia dân tộc thông qua nhân vật Thầy đờn Ba Đợi tử đất thần kinh đến đất phương Nam. Vở Anh Ba Đợi được đầu tư lớn, dàn dựng công phu với đội ngũ nghệ sĩ có tài, ở ba đơn vị cải lương Bắc Nam đều có tâm với nghề, họ đã diễn hết mình và đã hát từ hơi ruột hơi gan.

Đó là những yếu tố cơ bản để làm nên một vở diễn cải lương hoành tráng như Bản anh hùng ca về một con người, về di sản nghệ thuật dân tộc, thông qua một nhạc sư yêu nước Nguyễn Quang Đợi (Anh Ba Đợi), vị hậu tổ của nghệ thuật cải lương. Một công trình nghệ thuật được đầu tư lớn như vậy, dĩ nhiên sẽ được đông đảo cán bộ và nhân dân nồng nhiệt đón chào và nó sẽ không phải là tác phẩm nghệ thuật cúng cụ, nhân Kỷ niệm 100 năm Nghệ thuật cải lương ra đời, mà nó sẽ sống mãi với thời gian và nghệ thật cải lương là mãi mãi.

Xem toàn bộ vở cải lương “Thầy Ba Đợi”

Hà Nội, 1/5/2018

GS Hoàng Chương/VHVN

Video hay

Cùng chuyên mục

Lối sống mực thước, bình dị và những câu chuyện lay động lòng người (Bài 2)

Lối sống mực thước, bình dị và những câu chuyện lay động lòng người (Bài 2)

Đến với cử tri, nhân dân bằng phong cách gần gũi, ân tình (Bài 1)

Đến với cử tri, nhân dân bằng phong cách gần gũi, ân tình (Bài 1)

Liên hoan sân khấu dành cho thiếu nhi lần thứ nhất

Liên hoan sân khấu dành cho thiếu nhi lần thứ nhất

Hướng sang nguồn sáng phương Đông

Hướng sang nguồn sáng phương Đông

Sáng tạo cho những tác phẩm sân khấu hay cho thiếu niên nhi đồng

Sáng tạo cho những tác phẩm sân khấu hay cho thiếu niên nhi đồng

Văn hóa người làm báo phải được liên tục tích lũy, bồi đắp, nâng cao

Văn hóa người làm báo phải được liên tục tích lũy, bồi đắp, nâng cao

Sư Minh Tuệ – một biểu tượng thiện lương trong nghệ thuật

Sư Minh Tuệ – một biểu tượng thiện lương trong nghệ thuật

PHONG TRÀO THỂ THAO RẤT HIẾM CÓ Ở MỘT VÙNG QUÊ

PHONG TRÀO THỂ THAO RẤT HIẾM CÓ Ở MỘT VÙNG QUÊ

Vũ Bình Lục – Người giải mã  kho báu văn chương thông tuệ

Vũ Bình Lục – Người giải mã kho báu văn chương thông tuệ