Tác phẩm “Xứ Đoài mây trắng” của tác giả Nguyễn Sơn Đỗng do Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành năm 2017 lần đầu xuất hiện trên văn đàn đã gây chú ý tới giới chuyên môn và bạn đọc bởi lối hành văn bình dị, đi vào lòng người đọc và nguồn tư liệu phong phú từ ký ức. Đọc và cảm nhận về tác phẩm, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã đánh giá đây là một tác phẩm hay về người nông dân Việt Nam, về lòng yêu nước và những cống hiến, hy sinh quên mình của họ. VHVN xin giới thiệu bài viết của PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, Phó Viện trưởng Viện Văn Học về tác phẩm này.
Tôi hứng thú ngay từ những trang đầu tiên của tiểu thuyết Xứ Đoài mây trắng của Nguyễn Sơn Đỗng. Tác giả là một đảng viên 40 năm tuổi Đảng, nguyên Giám đốc Sở Lâm nghiệp của tỉnh Vĩnh Phú trước đây và khá yêu thích sáng tác văn chương. Ông sinh năm 1942 tại vùng quê Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội và là người có những am hiểu sâu sắc và trải nghiệm nhất định về lịch sử dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20.
Về cốt truyện, tiểu thuyết (tập một) có 34 chương, mỗi chương chia từ hai đến chín tiết. Cốt truyện có sự pha tạp giữa tư duy hồi cố, khởi đầu từ bối cảnh năm 1943 rồi ngược trở lại thế kỷ 16, cuối thế kỷ 19 và những năm đầu thế kỷ 20, sau đó tiếp diễn đến thời kỳ gần cận Cách mạng tháng Tám năm 1945… Trên nền tảng văn hóa vùng Kẻ Nủa – Chàng Sơn – xứ Đoài là câu chuyện của các dòng tộc, dòng họ với sự tiếp nối của vài ba thế hệ. Mạch truyện xòe như nan quạt, vừa xâu chuỗi vào cốt lõi thế hệ gia đình cụ cố – Quý, Quỳ – Hợp – Thắm, lớp cháu Quang – Xoan…, vừa lan tỏa với chuyện tình làng nghĩa xóm, hội làng, chuyện đi làm thợ xẻ mạn ngược, đi học vẽ, đi phu đồn điền… Tuy nhiên, kể từ khoảng chương 28 đến hết, cốt truyện trở về những vấn đề xã hội tương đối quy phạm, quen thuộc thời kỳ đêm trước Cách mạng tháng Tám…
Một điểm mạnh của tiểu thuyết Xứ Đoài mây trắng chính là khả năng tái hiện tính cách, tâm lý nhân vật và bối cảnh phong tục, tập quán, đời sống làng quê hồi đầu thế kỷ 20. Con người thôn quê cộng sinh trong nếp sống, nếp tâm lý và ứng xử với tất cả sự tốt đẹp và ngô nghê, cổ hủ và láu cá, trong sáng và tăm tối, chân thành đã được thể hiện một cách chân thực, sinh động. Có thể thấy được nhiều trang viết sinh động về gia cảnh đời thường dân quê, cưới hỏi, ốm đau, vay giật; cảnh hội quê, chợ quê, tết quê, chiều quê; cảnh tát nước, đơm cá, gặt lúa, gặp gỡ bậc chức sắc, kỳ lão, phố thị, người Tây… Lại có thể gặp những mối tình chân quê, bình dị, bản năng đầu làng cuối xóm hồi đầu thế kỷ 20, nhưng đã được phân tích, soi tỏ trong tâm thức hiện đại như chuyện ông Quý, chuyện Hai Vệ với Lành… Nét phồn thực nhân tính muôn đời góp phần gia tăng phong vị đời thường và giá trị nhân văn cho tác phẩm.
Xét trong văn mạch loại truyện phong tục làng quê, Xứ Đoài mây trắng góp thêm một cách nhìn về đời sống thôn quê giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20. Mặc dù các nhân vật chưa định hình thành tuyến, chưa liên kết thành số phận điển hình, nhưng thế mạnh của tiểu thuyết là bối cảnh, không khí, môi trường và hoàn cảnh sống của nhân vật. Chủ ý và thế mạnh miêu tả cảnh quan đời sống thôn quê đã vượt lên thành công xây dựng nhân vật điển hình và thể hiện ngay từ cách triển khai nội dung cũng như cách đặt nhan đề các chương: Mơ trạng (Chương 2), Gió lay hồn cũ (Chương 3), Tình mây trắng (Chương 4), Bài học cho người không biết chữ (Chương 5), Nửa chừng hy vọng (Chương 6)…; Mối tình đầu tiên (Chương 32), Cờ đỏ sao vàng (Chương 33), Đêm trước bình minh (Chương 34). Trong đó, số lượng nhân vật luôn được mở rộng, bổ sung, thậm chí trong nhiều chương không xuất hiện tuyến nhân vật gia tộc (cụ cố – Quý, Quỳ – Hợp – Thắm, Quang – Xoan) như ở Quan về (Chương 7), Gửi lại đời sau (Chương 9), Lý trưởng mù (Chương 11), Nỗi cay cà cuống (Chương 17), v.v…
Thêm một đặc điểm mạnh khác nữa của tiểu thuyết Xứ Đoài mây trắng là văn phong thực sự giàu chất tiểu thuyết. Lời văn hoạt, hàm súc, chuyển đoạn nhanh, giàu phong vị điện ảnh. Có thể tìm thấy ở đây số lượng phong phú các từ ngữ gắn với đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất: “bắt ròn” (trang129), “cá lưu”, “dạnh đồng” (trang130), “gon xong được cái bờ” (trang 132), “làm mải” (trang154), “Cùng trờ cùng trật” (trang 203),… Rất nhiều lời đối thoại và lối sống hầu như đã chuyển về thời quá khứ hoặc chỉ còn được bảo lưu thưa thoáng ở một vài vùng quê. Tiểu thuyết đã khơi gợi, phản ánh sinh động không gian, môi trường, cuộc sống, tâm tư người nông dân nửa đầu thế kỷ 20.
Xứ Đoài mây trắng là tiểu thuyết hiếm thấy, có “lối đi riêng” đi vào tâm thức người đọc rất đỗi tự nhiên và đó chính là thành công của tác giả Nguyễn Sơn Đỗng./.
Theo PGS, TS. Nguyễn Hữu Sơn
(Phó Viện trưởng Viện Văn học)