Dựa vào tài liệu công bố của GS. Hoàng Xuân Hãn, và nhiều tài liệu khác, chúng ta biết được Hồ Xuân Hương đã giao du với một số danh sĩ nổi tiếng thời bấy giờ. Trong số đó có cả nhà thơ Nguyễn Du. Không rõ Nguyễn Du có làm bài thơ nào xướng hoạ với nữ sĩ hay không. Nhưng GS. Hoàng Xuân Hãn ước đoán khi hai người gặp gỡ, giao lưu thì vào khoảng 1792 – 1795.
Khi đó Nguyễn Du khoảng 27 – 30 tuổi, còn Xuân Hương chừng 19 – 22 tuổi. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, có 3 bài nói về phụ nữ ở Thăng Long, trong số đó có “Điếu La Thành ca giả”, “Mộng đắc thái liên” (5 bài nhỏ cùng tên), và “Long Thành cầm giả ca”. Có vẻ như cô gái trong chùm bài này là Hồ Xuân Hương, khi đó là một người đẹp trẻ trung, xinh xắn, vui tươi:
Mộng đắc thái liên
(Chiêm bao được hái sen)
I.Khẩn thúc phù điệp quần
Thái liên trạc tiểu đĩnh
Hồ thủy hà xung dung
Thủy trung hữu nhân ảnh
Thắt chặt quần cánh bướm
Hái sen thuyền nhỏ bơi
Nước hồ sen trong vắt
Trong nước có bóng người.
(Đào Duy Anh dịch)
III. Kim thần khứ thái liên
Nãi ước đông lân nữ
Bất tri lại bất tri
Cách hoa văn tiếu ngữ
Sớm nay đi hái sen
Hẹn với cô nhà bên
Đến lúc nào chẳng biết
Cách hoa nghe cười lên
(Đào Duy Anh dịch)
IV. Cộng tri lân liên hoa
Thùy giả lân liên cán
Kỳ trung hữu chân ti
Khiên liên bất khả đoạn
Hoa sen ai cũng ưa
Cuống sen nào ai thích
Trong cuống có tơ mành
Vấn vương không thể dứt
(Phạm Khắc Khoan – Lê Thước dịch)
Phải chăng đây chính là điều mà sau này Nguyễn Du viết trong “Truyện Kiều”:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Một người tài tình như Nguyễn Du, một người xinh tươi, trẻ trung, hay chữ như Xuân Hương khó mà không cảm nhau, vấn vương nhau không thể dứt!
GS. Hoàng Xuân Hãn bình luận : “Tuy bút chứng không muốn trỏ là ai, nhưng lấy mọi bằng chứng mà suy, thì tôi đoán đó là Xuân Hương, có lẽ là hơp lí.”
Dẫu sao, nếu Hầu còn quen một cô gái Hồ Tây nào khác nữa, thì tình duyên giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương vẫn là có thật. Nó kéo dài ba năm vẹn theo lời Xuân Hương, mà nàng than là ngắn ngủi không tiếng dội”. ( Dẫn từ Đào Thái Tôn – Hồ Xuân Hương tiểu sử văn bản tiến trình huyền thoại dân gian hóa, Nxb Hội Nhà văn, 1999, tr.229).
Chúng tôi xin lưu ý rằng GS. Hoàng Xuân Hãn và cả TS. Đào Thái Tôn đã bỏ qua một chi tiết hết sức quan trọng khi bình luận về 5 bài “Mộng đắc thái liên” của Nguyễn Du cùng với bài thơ của Hồ Xuân Hương viết cho Nguyễn Du. Khá chắc chắn rằng khi Nguyễn Du cùng Hồ Xuân Hương hái sen, Tiên sinh đã làm bài “Mộng đắc thái liên” gửi người mình yêu mến. Và chúng tôi đoán rằng Nguyễn Du đã kín đáo tặng gương sen cho nàng nên viết “Hoa dĩ tặng sở úy/ Thực dĩ tặng sở liên – Hoa để tặng người mình sợ/ Gương để tặng người mình thương”. Vì có tặng bài “Mộng đắc thái liên” cho nàng, bởi thế cho nên khi Xuân Hương viết cho Nguyễn Du về sau này, nàng đã kín đáo và khéo léo nhắc lại Mộng ở “Mộng đắc thái liên” trong câu thơ “Giấc Mộng rồi ra nửa khắc không” về chuyện tình của hai người.
Dưới đây là bài thơ của Hồ Xuân Hương viết về Nguyễn Du:
Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn hầu (1)
( Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân)
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ thương
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương siu mấy (2)
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong
TS Đào Thải Tôn chú:
1. Nhớ bạn cũ, viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu
2. Sương siu mấy. Ba chữ này từ lâu đều được phiên âm là “sương đeo mái”. Nay phiên theo GS. Hoàng Xuân Hãn. Xem thêm về sự phiên âm ba chữ này ở phần chuyên luận. ( Vũ Nho chú – GS Hoàng Xuân Hãn giải thích rằng Trần Thanh Mại và Nguyễn Lộc đều đã phiên âm “sương đeo mái”. Hồ Tuấn Niêm chữa âm đeo ra treo. Cả hai thoại đều vô nghĩa hoặc phải ép nặn mới hơi có nghĩa. Đây là thành ngữ cổ, chữ Nôm có thể đọc là “sương siêu” hay “sương siu”. Căn cứ vào 3 ví dụ GS đã gặp trong Thiên Nam Ngữ lục và tuồng Thù Thế Tân Thanh, theo ý mà suy, sương siu nghĩa là bịn rịn).
Kèm theo là lời bình của GS Hoàng Xuân Hãn:
Trong đề mục, gọi Nguyễn Du là Hầu Cần Chánh. Vậy thơ này làm sau tháng 2 năm Quý Dậu ( 1813).
Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền cho biết rõ rằng, mùa đông năm trước, Nguyễn Du được triệu từ Quảng Bình về Huế, tháng hai năm sau, được thăng Cần Chánh điện học sĩ, rồi được chọn làm chánh sứ đi tuế cống triều Thanh. Có lẽ tin này đồn đến Thăng Long đã nhắc cho Xuân Hương nhớ chàng năm xưa từng đã dan díu với mình trong ba năm rồi vào kinh tuyệt không tin tức. Nay được vinh dự ra đi sứ mà mình số phận vẫn long đong. Nàng mừng cho Hầu và có lẽ ước thầm Hầu còn nhớ tình xưa và trên đường đi sứ qua Thăng Long, Hầu ghé bước lại nhà thăm hỏi kẻo ở Cổ Nguyệt đường nàng vẫn “Năm canh chiếc bóng chong”.
Cuối xuân năm ấy, Hầu qua Thăng Long, các quan Bắc thành đặt tiệc tiễn sứ ở nha Tuyên Vũ, Hầu chợt nghe tiếng đàn nguyệt quen tai từ một cô đầu già trong bóng tối bay ra, mà Hầu nhớ đã nghe 20 năm về trước ở nhà anh, bên Giám hồ, đời Tây Sơn. Hầu hỏi thì cô đầu ấy chính là người mà hầu đã thấy trộm khi trẻ, mà là một nhạc nữ cũ trong cung vua Lê. Hầu lòng trữ tình vẫn nặng cho nên, ngày nay ta còn được có thiên kiệt tác “Bài ca người gẩy đàn đất Long Thành” (Long Thành cầm giả ca). Với tính tình và trường hợp như thế, Nguyễn Du lúc ấy khó mà quên được Xuân Hương. Nhưng bây giờ hầu là một quan to phụng sứ; vả lại bây giờ Hầu đã 48 tuổi (sinh năm 1765). Ra làm quan triều Nguyễn, Hầu lại giữ thái độ rất cẩn thận, dè dặt. Vậy không thể đáp mộng Xuân Hương. Nhưng biết đâu Hầu không nghĩ tới?
(Đào Thái Tôn, sách đã dẫn, trang 227 -228)
Ngoài bài thơ Hồ Xuân Hương đề rõ gửi Cần chánh Nguyễn Hầu, còn có một bài thơ khác kín đáo hơn, đó là bài “Chơi Hồ Tây nhớ bạn”. Bài này có trong bản chép của Landes năm 1893:
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao giờ
Nhật Tân đê lở nhưng còn lối
Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thơ
Nọ vực Trâu Vàng trăng lạt bóng
Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy
So dạ hoài nhân chửa dễ vơi.
“Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng: đọc thơ này “phảng phất như nghe Xuân Hương nhớ bạn đồng châu Nguyễn Du ngày xưa hẹn cùng nhau đi hái sen”. ( Đào Thái Tôn, sách đã dẫn, trang 321).
Không còn nghi ngờ gì, Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương có giao du với nhau, quyến luyến nhau, nhưng mối tình không đi đến hôn nhân. Các bài thơ của Nguyễn Du “Mộng đắc thái liên” và bài của Hồ Xuân Hương “Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn hầu” là chứng tích của mối tình tài tử giai nhân đó.
Hà Nội, tháng 1 năm 2022
Ghi chú băn khoăn: Hồ Xuân Hương viết bài thơ cho Nguyễn Du là điều chắc chắn không bàn cãi. Nhưng thời điểm bà có “3 năm vẹn” với Nguyễn Du là khi nào? Chúng tôi có gọi cho nhà thơ Ánh Tuyết, Chủ tịch Hội Kiều học Thái Bình và được chị cho biết: Nguyễn Du thành gia thất với bà Đoàn Thị Tộ, em Tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn vào năm 1786, cũng năm đó Nguyễn Du về Thái Bình. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập 2, bộ nâng cao viết “1789, nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du lánh về quê vợ,[…] vợ mất ( 1796), về quê Nghi Xuân” ( Nxb Giáo dục, 2007, tr.152). GS Hoàng Xuân Hãn thì viết “Từ mùa đông 1803 đến mùa thu năm sau, Hầu chuyên làm việc từ hàn để đón tiếp sứ Thanh sang sắc phong. Mùa thu 1804 bị bệnh, Hầu về quê nghỉ một tháng, rồi được triệu về kinh, từ đó không ra Bắc lần nào nữa. Xem vậy, thời Hầu có thể giao du với Xuân Hương trong khoảng này không quá 2 năm ( VN nhấn mạnh). Ta phải nhận rằng cuộc tình này vào thời Tây Sơn. Tôi đoán vào khoảng 1792 -1795 ( trai 27 -30 tuổi và gái chừng 19 -22 tuổi).” ( Dẫn theo Đào Thái Tôn, sách đã dẫn, tr. 229).
Năm 1803 và 1804 Nguyễn Du ở Thăng Long, nhưng khi đó Hồ Xuân Hương đã lấy lẽ Chiêu Hổ ( 1802 -1804) và theo chàng về làng Gáp, Phong Châu ( Nghiêm Thị Hằng – Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Nxb Hồng Đức, 2021, tr. 114).
TS. Phạm Trọng Chánh lại cho rằng : Nguyễn Du từng lang thang ở Trung Quốc 3 năm ( 17 87 -1790) Sau đó Nguyễn Du trở về Long Châu, Nam Đài chờ đợi và về Thăng Long mùa xuân năm 1790 cùng sứ đoàn của anh. (Xem Phạm Trọng Chánh, “Nguyễn Du, mười năm gió bụi”, Khuê Văn Paris xuất bản, 2011). Chưa có điều kiện kiểm tra thông tin của TS. Phạm Trọng Chánh, nhưng quả là Nguyễn Nễ, anh Nguyễn Du có giúp Tây Sơn và có làm Phó sứ Trung Quốc khoảng 1790 -1792 ( Theo Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế – Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, bộ mới, Nxb Văn hóa thông tin, 2013, tr. 831).
Như vậy những mốc năm tháng rất mâu thuẫn.
Nếu mối tình đó xảy ra khi Nguyễn Du về thái Bình năm 1786, thì không thể, vì khi đó Hồ Xuân Hương mới 13 tuổi. Nếu mối tình đó xảy ra ở thời điểm GS Hoàng Xuân Hãn dự đoán, thì lại trái với thời điểm 1789 Nguyễn Du đã về quê vợ và ở miết đến 1796 thì về quê Nghi Xuân. Thật ra thì mối tình ba năm ấy xảy ra vào thời điểm nào? Xin ghi lại những băn khoăn này để các vị thức giả chỉ giáo.
Vũ Nho/Tạp chí Văn Hiến bản in