Hồi ký cuối đời của thái giám Trung Quốc cuối cùng đã giúp hậu thế hình dung ra cuộc sống của vua chúa, phi tần đằng sau bức tường cao của Tử Cấm Thành.
Trong lịch sử năm nghìn năm của dân tộc Trung Hoa, có rất nhiều triều đại và vô số cung điện xa hoa, sinh sống trong những cung điện bí ẩn đó, ngoài những đứa con của hoàng tộc, phi tần, còn có những con người đặc biệt đó là thái giám.
Đường Chân đã mô tả về thái giám trong cung lúc bấy giờ: “Nhìn không giống thân người, nhìn không giống mặt người, nghe không giống giọng người, nhìn không ra tình cảm của con người”giọng nói là nữ, và hành vi giống như nữ và không phải nam, trở thành một người “trung lập” không phải nam cũng không phải nữ.
Vì chiến tranh, gia đình họ Tôn trở thành những người ăn mày lang thang khắp đó đây để xin ăn để được miếng cơm cầm cự qua ngày.
Vào thời điểm bấy giờ, vương triều Mãn Thanh dù đã suy vi nhưng ít ra vẫn còn nắm quyền thống trị trên lãnh thổ Trung Hoa. Vì vậy, con đường trở thành thái giám tuy có nhiều thiệt thòi nhưng vẫn là con đường tốt hơn so với việc ngày ngày đi xin ăn từng bữa.
Vậy là Tôn Diệu Đình đã chọn cách hy sinh cuộc đời của một người đàn ông để trở thành một thái giám.
Thế nhưng do hoàn cảnh gia đình quá nghèo, ông không có đủ tiền để vào cung báo danh và trải qua quá trình “tịnh thân” (hoạn) một cách chuyên môn như những người khác.
Bấy giờ, để có thể khoác trên mình tấm áo của thái giám, Tôn Diệu Đình không còn cách nào khác ngoài việc cắn răng ở nhà để cha mình dùng dao để… thiến!
Tuy nhiên cũng vì điều kiện quá thiếu thốn, không có thuốc men gì cả, lại thêm vết thương đau đớn, sau khi thiến ông đã ngất xỉu và hôn mê mất mấy ngày.
Tới khi tỉnh lại, Tôn Diệu Đình càng không khỏi rụng rời vì nghe được một tin “sét đánh ngang tai”: Vua Phổ Nghi tuyên bố thoái vị, Thanh triều đã chính thức sụp đổ trên lãnh thổ Trung Hoa.
Điều này đồng nghĩa với việc những người mang thân phận thái giám như ông không còn chốn dung thân.
Tuy nhiên, mặc dù Thanh triều trên danh nghĩa đã diệt vong, nhưng một số hoàng tộc vẫn ở lại hoàng cung và duy trì nếp sinh hoạt giống trước đây. Điều này cũng đồng nghĩa với việc những người thái giám như Tôn Diệu Đình ít ra cũng vẫn có “chốn dung thân”.
Nhờ vào những tài lẻ của mình, thái giám Tôn Diệu Đình chẳng mấy chốc đã nằm trong số ít những thái giám có tiền đồ nhất lúc bấy giờ. Thế nhưng tiền đồ tưởng như xán lạn của ông lại bất ngờ bị một trận hỏa hoạn thiêu rụi chỉ sau một đêm.
Vì thời đó hoàng cung thường xuyên xảy ra nhiều vụ việc thái giám lén ăn trộm đồ và mang ra ngoài bán.
Một đêm nọ, Tử Cấm Thành đột nhiên xảy ra hỏa hoạn khiến rất nhiều tài vật bị thiêu hủy. Phổ Nghi khi đó vô cùng phẫn nộ và cho rằng các hoạn quan đã cố tình phóng hỏa để che giấu vết tích ăn trộm.
Dưới cơn nóng giận, ông đã hạ lệnh đuổi toàn bộ các thái giám ra khỏi Tử Cấm Thành, chỉ lưu lại một số rất ít thân tín nhằm phục vụ vài công việc hàng ngày. Trớ trêu thay, Tôn Diệu Đình lại nằm trong số những thái giám bị đuổi.
Nhưng sau đó vì Tử Cấm Thành lại cần người, nên hoàng tộc lại chiêu mộ thái giám, nhờ vậy mà một lần nữa ông được quay trở lại kinh thành và tới Trữ Tú cung phục vụ Uyển Dung Hoàng hậu.
Tôn Diệu Đình kể lại rằng khi phục vụ Hoàng hậu Uyển Dung, ông không được phép nhìn thẳng vào mặt chủ nhân mà toàn bộ quá trình đều phải quỳ. Ví dụ khi phục vụ Hoàng hậu rửa tay, thái giám phải quỳ ở một độ cao thích hợp, vừa đủ để không quá thấp khiến hoàng hậu phải cúi xuống, cũng không quá cao để bà phải giơ tay.
Nếu sơ sẩy quỳ không đúng độ, họ phải chịu sự trừng phạt nặng nề. Những việc tưởng chừng như tầm thường này thực ra rất khó hoàn thành. Nhiều thái giám già hoặc sức khỏe không tốt mỗi lần hầu hạ chủ nhân xong mồ hôi trên người đều ướt sũng.
Dù làm thái giám và cung nữ sẽ bị ức hiếp, bị coi như cỏ rác nhưng với Tôn Diệu Đình, làm hoàng đế và hoàng hậu ông thấy cũng không khá hơn là bao vì họ phải chịu đựng nỗi cô đơn vô tận. Họ cũng bị những ràng buộc, xiềng xích, luật lệ vô hình trói buộc, chưa bao giờ có được cuộc sống tự do.
Các phi tần trong cung điện nhà Thanh mỗi ngày có lối sống sinh hoạt cũng nghiêm khắc và nhàm chán theo một cách riêng. Họ phải thức dậy từ 5 giờ sáng mỗi ngày để rửa mặt, thay xiêm y, trang điểm. Khẩu phần cơm của mọi người cũng được phân chia cao thấp nhằm thể hiện rõ cấp bậc. Các hoạt động trong ngày nhìn chung đều quay quanh đi vấn an những người có địa vị cao hơn, đến thăm, trò chuyện với các vị phi tần khác.
Đến chiều tối, các vị phi tần chỉ ngồi đợi Hoàng đế lật thẻ bài gọi vào thị tẩm. Nếu không được gọi đến, họ kết thúc một ngày dài và tất cả mọi năm tháng đều lặp đi lặp lại như vậy. Hậu cung nhìn chung chính là nơi chôn vùi cuộc đời của biết bao nhiêu con người, nhưng không thể có lối thoát.
Sau này, Phổ Nghi cùng gia tộc bị đuổi khỏi Tử Cấm Thành. Thì đồng nghĩa với việc tầng lớp thái giám như Tôn Diệu Đình rơi vào cảnh thất nghiệp. Tôn Diệu Đình chỉ còn cách trở về quê cũ, cắn răng sống trong sự đàm tiếu và dè bỉu của họ hàng, làng xóm.
Mấy năm sau, chính quyền “Ngụy Mãn châu quốc” được thành lập ở phía đông bắc Trung Hoa. Ông lại một lần nữa lặn lội tới đó để phục vụ cho hoàng tộc của chính quyền bù nhìn này.
Thế nhưng chẳng được bao lâu, Tôn Diệu Đình vì mắc phải bệnh lao phổi mà bị “sa thải”. Sau lần này, ông đã quyết định không trở về quê cũ mà tới Bắc Kinh tá túc tại chùa Hưng Long ở Bắc Kinh, ngôi chùa này cũng là nơi ở của hơn 40 thái giám cùng số phận với ông.
Trong những năm cuối đời, Tôn Diệu Đình sống ở chùa Quảng Hoa và trở thành một người lạc quan, cởi mở với cuộc sống, sau đó ông đã viết cuốn tự truyện “Vị thái giám cuối cùng của Trung Quốc”. – đây là cuốn tư liệu quý giá kể về nhiều bí mật trong cung cấm thời xưa”.
Năm 1996, Tôn Diệu Đình qua đời vì bạo bệnh tại Bắc Kinh. Cuộc đời của ông đầy rẫy những huyền thoại, và cuối cùng ông đã chọn đến cửa Phật để an hưởng tuổi già.
Sưu tầm/ Văn hiến Việt Nam