Nguyễn Bỉnh Khiêm: Bậc trí giả khai mở minh triết Việt Nam

18:34 | 06/12/2025

Trong kho tàng tư tưởng và văn hóa Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) – người đời sau tôn xưng ông là “Trạng Trình”, là một trong những biểu tượng sáng chói nhất của trí tuệ, đức độ và tầm nhìn thời đại. Ông không chỉ là nhà Nho uyên bác, nhà thơ lớn, mà còn là triết gia dân tộc với những dự cảm sâu xa về vận nước. Tư tưởng của ông – dung hòa giữa Nho, Lão, Phật – tạo nên một hệ minh triết đặc biệt, góp phần định hướng nhiều giá trị tinh thần của người Việt qua nhiều thế kỷ. 

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) có tên là Văn Đạt tư là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, là một danh nhân nổi tiếng, tài năng và đức độ vẹn toàn, để lại cho đời nhiều tác phẩm văn hóa quý giá. Ông được coi là một trong những nhân vật ảnh hưởng lớn nhất đến lịch sử và văn hoá Việt Nam thế kỉ XVI.

Danh nhân văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (sau thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Cha là Giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử, mẹ là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông. Bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số. Từ nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nổi tiếng thần đồng, lại được bố mẹ hết lòng dạy dỗ, rèn cặp nên năng khiếu thông minh ngày càng bộc lộ.

Năm 18 tuổi (1509), Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Hội Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời. Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định triều chính do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, ông đã cáo quan về quê sống đời dạy học.

Lớn lên trong thời đại loạn (giai đoạn triều Lê Sơ rơi vào khủng hoảng, suy tàn), không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc Bằng nên từ khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thi (năm 1535), suốt hơn 20 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê Sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê Sơ ( năm 1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc).

Tới năm Đại Chính thứ 6 (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm ấy ông đã 45 tuổi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình, Nguyễn Bỉnh Khiêm đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên.

Ngay sau khi đỗ đạt, Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm làm Đông Các Hiệu thư (chuyên việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình) rồi sau được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả Thị lang Bộ Hình, Tả Thị lang Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ.

Ông làm quan dưới triều nhà Mạc 8 năm. Tháng 8 năm Nhâm Dần 1542, sau khi dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng thần, không được vua Mạc chấp thuận, ông treo ấn từ quan về quê mở trường dạy học.

Lúc này, ở nước ta hình thành hai triều đại chống đối nhau kịch liệt. Ở Nam triều, tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh đã mạnh lên nhiều, quyền lực thực tế rơi vào họ Trịnh. Còn Bắc triều thì bọn gian thần càng ngày càng lộng hành. Đây là một tổn thất lớn của nhà Mạc.

Thời gian này tuy ở nhà dạy học nhưng vua Mạc vẫn lấy sư lễ đãi ông. Những khi Nhà nước có việc gì quan trọng, triều đình đều sai sứ đến hỏi, có khi triệu ông về kinh, thung dung trù liệu kế hoạch, rồi lại trở về am, chứ không ở lại. Ông không những tích cực ủng hộ nhà Mạc mà còn động viên khuyến khích bạn bè hăng hái dâng kế sách, hoặc can gián nhà vua.

Sau khi cha con Mạc Đăng Dung chết, chúa nhỏ trị vì, quyền thần lũng đoạn, lý tưởng cứu đời giúp dân không còn điều kiện thực hiện, ông đành phải về hưu. Tuy về nghỉ, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn gắn bó với triều đình, vẫn tận tụy với công việc được giao, kể cả việc gian nan, nguy hiểm như đi dẹp anh em Vũ Văn Uyên.

Trong những năm trí sĩ cũng như thời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã cho dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học cạnh sông Tuyết (còn có tên là sông Hàn). Vì vậy mà về sau các môn sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”. Học trò của ông có nhiều người hiển đạt sau này như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông)…

Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên (1585), ông tạ thế tại quê nhà ở tuổi 94. Hay tin ông qua đời, vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Để thể hiện sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm, triều đình lại sai cấp ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà. Đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ là “Mạc triều Trạng nguyên Tể Tướng từ”.

Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy 3 người vợ và 12 người con, trong đó có bảy người con trai. Cũng giống như cha, hầu hết các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc. Bởi vậy sau khi nhà Mạc bị thất thủ dưới tay nhà Lê -Trịnh (1592), con cháu ông đều phải thay tên đổi họ, li tán thập phương. Một chi họ do người con trai cả của ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn Chính đứng đầu đã di cư về vùng Trường Yên thuộc đất Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay và đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê – Trịnh.

Sinh thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) dẫn người cháu đội bát hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị Thục rồi về sau tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên đất Tiên Lãng ngày nay.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho yêu nước, nhà lý học đại tài được các học giả kính phục, sử sách ghi lại và lưu truyền trong nhân gian về tài tiên đoán hậu vận (sấm ký)… Ông còn là một nhà thơ lớn, để lại cho hậu thế trên 1.000 bài thơ (620 bài thơ chữ Hán,153 bài thơ Nôm), tiêu biểu như các tập thơ “Bạch Vân am thi tập” (chữ Hán) và “Bạch Vân quốc ngữ  thi tập” (chữ Nôm). Thi phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang giá trị nghệ thuật cao, bút pháp tinh thâm, đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống, như: tình yêu quê hương, đất nước, châm biếm đả kích bọn tham quan…

Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo cũ, nay là xã Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Hải Phòng.

Theo một số nguồn tư liệu, Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm được xây dựng sau khi ông mất và hoàn thành vào cuối năm 1586. Theo “Từ Vũ bi ký…” lập năm Vĩnh Hựu thứ hai (1736) hiện lưu tại di tích, đền dựng từ sau khi ông mất, đến năm 1735, dân làng Trung Am, tổng Thượng Am đóng góp công của trùng tu, tôn tạo lại đền để thờ phụng. Vào năm 1928, đền tiếp tục được trùng tu, với kiến trúc chữ  “Đinh”, mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Năm 1991, nhân kỷ niệm 500 năm sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm, di tích được tu bổ, phục hồi, mở rộng, dựng tượng đài, lập quảng trường, xây hồ bán nguyệt, với quy mô và cảnh quan như hiện nay.

Khu du tích có vườn tượng mô tả lại các khung cảnh đời thường trong cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như cảnh dân làng mừng rỡ chào đón Trạng Trình từ quan trở về làng hay khi cụ ngồi giảng văn thơ cho các học trò.

Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm tọa lạc giữa không gian rộng lớn, quay hướng Đông, phía trước là hồ nước; phía Bắc là triền đê và dòng Tuyết giang; phía Đông hướng nhìn ra biển cả bao la; phía Nam là xóm làng; phía Tây với những cánh đồng lúa, thuốc lào xanh ngắt. Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tổng diện tích 91.500,7m2, bao gồm các hạng mục: Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm; đền thờ Thân phụ, Thân mẫu Nguyễn Bỉnh Khiêm; am Bạch Vân; quán Trung Tân; tháp Bút Kình Thiên; mộ phần cụ Nguyễn Văn Định; quảng trường, tượng đài.

Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2367/QĐ-TTg ngày 23/12/2015 ).

Trong những năm qua, chính quyền và Nhân dân thành phố Hải Phòng đã có nhiều hoạt động nhằm gìn giữ, bảo tồn và tôn vinh những di sản mà Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại. Thành phố nhiều lần tổ chức Hội thảo khoa học về thân thế, sự nghiệp và những đóng góp của ông trong lịch sử dân tộc. Quy hoạch, tu bổ, tôn tạo Di tích quốc gia đặc biệt Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm; đưa lễ hội Đền thờ Trạng Trình ghi danh vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; xuất bản những ấn phẩm, đặt tên đường phố và công trình công cộng mang tên Nguyễn Bỉnh Khiêm.

UBND thành phố Hải Phòng đã quyết định thành lập Ban Vận động UNESCO vinh danh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, tích cực vận động để UNESCO vinh danh ông là danh nhân văn hóa thế giới nhân kỷ niệm 450 năm ngày mất vào năm 2035, khẳng định tầm vóc lớn lao của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ trong nước mà cả trên trường quốc tế.

Thế Hiếu


Cùng chuyên mục

Quảng Trị: Đền và lăng mộ triều Lê được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia

Quảng Trị: Đền và lăng mộ triều Lê được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia

Chuỗi hoạt động kỷ niệm 26 năm Hội An, Mỹ Sơn được công nhận Di sản văn hóa thế giới

Chuỗi hoạt động kỷ niệm 26 năm Hội An, Mỹ Sơn được công nhận Di sản văn hóa thế giới

Công đoàn NHCSXH Việt Nam hỗ trợ 500 triệu đồng giúp đồng bào vùng lũ vượt khó

Công đoàn NHCSXH Việt Nam hỗ trợ 500 triệu đồng giúp đồng bào vùng lũ vượt khó

Du lịch Hải Phòng bứt phá trong không gian phát triển mới

Du lịch Hải Phòng bứt phá trong không gian phát triển mới

VĂN HOÁ CƠ TU ĐƯỢC KỂ LẠI BẰNG NGÔN NGỮ HIỆN ĐẠI CỦA NHÓM SINH VIÊN TRẺ

VĂN HOÁ CƠ TU ĐƯỢC KỂ LẠI BẰNG NGÔN NGỮ HIỆN ĐẠI CỦA NHÓM SINH VIÊN TRẺ

Tuyên Quang: Sắp diễn ra Lễ hội hoa Tam giác mạch 2025 – “Miền đá nở hoa”

Tuyên Quang: Sắp diễn ra Lễ hội hoa Tam giác mạch 2025 – “Miền đá nở hoa”