Tam quốc có thể nói là thời đại tập hợp rất nhiều rất nhiều nhân tài, tinh anh, mưu sĩ xuất hiện. Nói đến sự rực rỡ của Tam quốc thì không thể không nói đến Gia Cát Khổng Minh, đây là một kỳ tài hội tụ rất nhiều ưu điểm cả phong độ lẫn trí tuệ.
Trong thời đại “phong khởi mây bay”, Khổng Minh chống đỡ cục diện tam phân thiên hạ của Hán thất, ông là đại biểu cho sự “cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ” tức là cúi đầu phục vụ tận tụy cho đến chết, là hiền tướng trung quân yêu nước của lịch sử Hoa Hạ.
Trước khi Gia Cát Lượng xuống núi, từng có người tôn sùng ông, người này chính là Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy. Thủy Kính tiên sinh từng đánh giá rằng: “Ngọa Long Phượng Sồ, đắc nhất khả an thiên hạ”, lời này ý rằng chỉ cần có được một người này có thể an bình thiên hạ.
Tuy rằng lời khen có phần hơi khoa trương, nhưng từ những việc mà Ngọa Long Phượng Sồ làm được, thì có thể nhìn ra đích xác là nhân tài khó có được, xứng đáng được khen như thế.
Rất nhiều người chỉ chú ý đến câu nói này của Tư Mã Huy, nhưng lại không biết sau lời này còn có một câu nói: “Ngọa Long đắc kỳ chủ, bất đắc kỳ thời” nghĩa là Ngọa Long gặp được minh chủ nhưng lại không gặp thời.
“Tại sao lại có tiếng thở dài như vậy? Chúng ta có thể phân tích về hai khía cạnh trong số mệnh đã được định sẵn của truyền kỳ Gia Cát Khổng Minh.
1. Gia cát Lượng gặp được minh chủ
Khổng Minh mưu trí siêu quần, quân sự, chính trị đều cực kỳ ưu tú, nhưng trong thời cuộc thời bấy giờ, Tào Tháo sau trận Quan độ, càn quét quần hùng phương Bắc, nhiều lần xuất kích, nam chinh bắc chiến, hơn nữa áp chế thiên tử tập hợp chư hầu, có thể nói là binh cường mã tráng, văn thần võ tướng đều nghe lệnh.
Mà Đông Ngô trải qua Tôn Kiên, Tôn Sách đến Tôn Quyền thống lĩnh Đông Nam, dưới sự phụ tá của Chu Du, Lỗ Túc có thể nói là ổn định thế cục, hơn nữa địa lợi có trường giang thiên hiểm, vị trí địa lý dễ thủ khó công. Nhân tài cũng yêu mến.
Lưu Biểu tại Kinh Châu tuy thế lực không tầm thường, nhưng không có hùng tài đại lược, biểu hiện yếu đuối, buông thả quần hùng.
Lưu Bị tương lai không quá khả quan, Trương, Triệu, văn thần mưu sĩ cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Trong tình huống này, Gia Cát Lượng nếu nương tựa vào Tào Ngụy và Đông Ngô sẽ khó có thể được trọng dụng, mà nương tựa vào Lưu Biểu thì không có cơ sở thể hiện tài năng của mình.
Ngược lại Lưu Bị tuy rằng nền tảng yếu kém, nhưng có lòng muốn khôi phục Hán thất, cũng rất quý tiếc hiền tài, mà đúng lúc này Lưu Bị ở thời khắc gian nan không nơi nương tựa.
Không thể nghi ngờ nữa đúng là “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi”, cho nên mới có Ngọa Long “tương phùng Lưu Bị” là người được chủ, mà Lưu Bị “tam cố mao lư” (điển tích lưu bị ba lần tới nhà tranh để mời Gia Cát Lượng xuất sơn phò tá mình) cũng như cá gặp nước.
2. Gia Cát Lượng kỳ tài không gặp thời
Từ phương diện thứ hai mà nói, chính là thiên thời địa lợi nhân hòa. Khổng Minh gặp được minh chủ, nhưng lại không được thời.
Thời thế lúc bấy giờ, Tào Tháo ở phương Bắc đã hình thành thế lớn mạnh, phía Đông Nam Đông Ngô của Tôn Quyền cũng đã ổn định.
“Long Trung Đối” thiên hạ chia ba, đây là bá nghiệp (bá chủ thiên hạ), mà không phải đế nghiệp (xưng vua), trong đó có nhắc tới “thiên hạ có biến” thì mới có thể làm được. Hán thất suy sụp, cần đảm bảo sự ổn định của Ích Châu, Kinh Châu và Hán Trung thì mới có thể từ từ thực hiện.
Nhưng sự thật là, khi Khổng Minh xuất sơn, thiên hạ của Tào Tháo đã chiếm hơn phân nửa, Đông Ngô tọa phân nửa giang nam, Lưu Bị chỉ còn chút hơi tàn, đối mặt với địa bàn lớn hơn mình, nhân khẩu tài nguyên nhiều hơn mình, nhân tài cũng sánh ngang mình, sự sinh tồn của Thục quốc có thể nói là bị kẹp ở giữa.
Nội bộ Thục quốc cũng mâu thuẫn liên tục, nhiều lần Bắc phạt, mặc dù là để hoàn thành ý chí của Lưu Bị, nhưng cũng vì để chuyển dời mâu thuẫn kịch liệt bên trong, ổn định chính quyền Thục quốc bất đắc dĩ mới phải làm như vậy.
Khổng Minh cả đời vì hưng phục Hán thất, vì báo đáp ân tri ngộ của Lưu Bị, có thể nói là “phao đầu lô sái nhiệt huyết, lực tận nhi vong” bỏ hết tâm sức ra mà không tiếc một thứ gì kể cả tính mạng cho đến lúc chết.
Năng lượng tích cực của “Xuất Sư biểu” khiến người ta kích động không thể giải thích được nhiệt tình yêu nước nồng đậm của một nhân thần.
Nói một chút về “Xuất sư biểu” là tên gọi hai bài biểu, Tiền xuất sư biểu và Hậu xuất sư biểu do Gia Cát Lượng viết ra để dâng lên Thục Hán Hậu chủ Lưu Thiện trước khi ông thân chinh dẫn quân đi Bắc phạt lần thứ nhất và lần thứ hai vào các năm 225 và 226 thời Tam Quốc.
Hai bài biểu này ngoài việc trình bày nguyên nhân xuất chinh, Gia Cát Lượng còn dùng để bày tỏ sự trung thành của mình với hoàng đế Thục Hán và những lo lắng của ông cho sự an nguy của đất nước.
Với giọng văn thống thiết, Tiền xuất sư biểu và Hậu xuất sư biểu sau đó đã trở nên nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc như là đại diện xuất sắc của thể loại biểu và là tượng trưng cho lòng trung thành trong thời phong kiến
Cuộc đời Gia Cát Ngọa Long là truyền kỳ, là chính khí lẫm liệt, nhưng cũng không thể làm trái mệnh trời, làm cho người ta cảm thương không thôi!
Tam Quốc Diễn Nghĩa diễn ra trong 1 thế kỷ, anh tài quần tụ, cũng để diễn một chữ Nghĩa cho thế nhân biết được thế nào là chữ “Nghĩa chân chính”. Mỗi một nhân vật đều cần làm tròn vai diễn của mình, cho dù giỏi đến, là bậc kì tài có thể đoán được thiên ý nhưng cũng không thể làm trái.
Sưu tầm/ Văn hiến Việt Nam