Nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa phi vật thể, trong giai đoạn từ 2022-2026 tỉnh An Giang sẽ tư liệu hóa và số hóa các di sản chữ viết trên lá Buông của người Khmer.
Việc Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông của người Khmer tỉnh An Giang đến năm 2030” có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn các di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa phi vật thể nói riêng của tỉnh.
Độc đáo kinh lá buông
Theo Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, xuất hiện từ thế kỷ 19, Kinh lá buông được viết bằng tiếng Khmer cổ hay tiếng Pali theo trường phái Thomanadut và Mahainikai. Đây là loại thư tịch cổ quý hiếm khắc chữ trên lá buông của người dân tộc Khmer (gọi là Satra).
Ở An Giang, Kinh lá buông hiện còn lưu giữ trên 100 bộ Kinh Phật tại 30/65 chùa Khmer thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Mỗi bộ Kinh có từ 4 -10 cuốn (quyển), mỗi cuốn có 20-60 lá kinh, mỗi mặt lá có 5 dòng, với khoảng 150 chữ.
Kinh lá Buông chứa đựng giá trị về kỹ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào dân tộc Khmer.
Kinh lá buông có 4 loại gồm kinh Phật; truyện cổ dân gian; hội hè, trò chơi dân gian; bài giáo huấn dân gian. Trong đó, Kinh Phật chạm khắc trên lá buông là tài liệu quý, ghi lại những lời dạy của Phật để truyền cho hậu thế và chỉ được mở ra thuyết pháp vào những dịp quan trọng như lễ Phật Đản, lễ Kathina (lễ dâng bông, dâng y cà sa), lễ Thvai PresKhe (Cúng trăng), Lễ Dolta (Cúng ông bà)…
Theo nghệ nhân Nhân dân, Hòa thượng Chau Ty, trụ trì chùa Xvay Ton (xã Núi Tô, huyện Tri Tôn) nghệ thuật khắc chữ trên lá buông rất kỳ công. Ngay từ lúc còn là búp trên cây, lá buông đã được chọn và ghép vào khung cây để lá phát triển theo ý muốn, tránh tiếp xúc với ánh sáng mặt trời từ 3-5 tháng, sau đó cắt xuống, mang phơi khô và sử dụng.
Khi khắc chữ trên lá phải sử dụng mũi bút bằng sắt và viết xong dùng vải thấm than trộn với dầu thông rồi nhúng qua dầu lửa để quét lên chữ khắc.
“Việc khắc kinh, chữ trên lá buông là một việc làm rất khó khăn, cần nhất là ý chí kiên nhẫn và chỉ những ai tinh thông Phật pháp mới có thể làm ra những bộ kinh lá có được nét chữ đẹp, đều đặn, thẳng hàng, rõ ràng để lưu truyền đến thế hệ hôm nay” Hòa thượng Chau Ty nói.
Bên cạnh đó, nghệ nhân phải tìm không gian yên tĩnh, tập trung cao độ và phải ở nơi đó cho đến khi hoàn thành việc khắc chữ. “Một ngày, nếu nhanh lắm thì nghệ nhân chỉ viết được 2-5 tấm lá. Nếu bất cẩn không tập trung một phút giây thôi, nét chữ bị sai thì cả tấm lá đành phải vứt bỏ. Do đó, để chép xong một bộ kinh có thể mất hàng tháng trời, vì mỗi bộ kinh có độ dài từ 20-60 lá” ông Chau Chênh (xã Cô Tô, huyện Tri Tôn), một người từng tham gia viết kinh lá buông cho biết thêm.
Với nét văn hóa độc đáo và là sản phẩm vô giá trong tôn giáo Nam tông Khmer, năm 2017, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận “Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông của người Khmer” là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Năm 2006, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã xác lập chùa Xvay Ton là ngôi chùa lưu giữ nhiều nhất về sách kinh viết trên lá buông có tại Việt Nam. Năm 2015, hòa thượng Chau Ty, nghệ nhân khắc chữ trên lá buông được công nhận là Nghệ nhân Ưu tú và tháng 3/2019 được Nhà nước công nhận là Nghệ nhân Nhân dân.
Nguy cơ mai một
Trải qua những thăng trầm, biến cố, kinh lá buông dần mai một. Hiện nay, chỉ còn duy nhất Hòa thượng Chau Ty biết viết Kinh chữ Khmer cổ, chữ Pali trên lá buông và đang truyền lại cho các sư sãi Khmer trong vùng.
Do chiến tranh tàn phá, những cuốn kinh Phật viết trên lá buông hiện nay còn rất ít, chỉ có những chùa lớn, lâu đời mới lưu giữ được. Tuy nhiên, khâu bảo quản gặp khó khăn, không đảm bảo trước tác động của môi trường nên kinh lá bị hư hỏng theo thời gian, có nguy cơ bị mai một.
Trước đây, kỹ thuật viết kinh chỉ được chân truyền cho các đệ tử giỏi nhất nên không nhiều sư sãi biết được. Bây giờ, kinh lá buông cần được bảo tồn nên cần mở rộng để nhiều người có cơ hội tiếp cận với kỹ thuật này.
Buông là một loại cây sống trên núi, hiện chỉ còn rải rác ở núi Tô, núi Dài, núi Cấm… tại tỉnh An Giang. Cây buông cao như cây thốt nốt, nhưng lá dài và dày hơn, có nhiều lớp như ván ép. Mỗi chiếc lá có thể cho thành 3 mảnh lá nhỏ để viết chữ, mỗi mảnh dài 5-6 tấc, chiều rộng 5 phân.
“Điều lo lắng nhất hiện nay là nguồn lá buông ngày càng khan hiếm. Lá buông không còn dễ tìm thấy như ngày trước, nếu có cũng khó có thể đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Chúng tôi buộc phải tìm mua nguyên liệu từ các cánh rừng của Campuchia” – Hòa thượng Chau Sơn Hy, trụ trì chùa Sà Lôn (xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) chia sẻ.
Không chỉ vậy, giới trẻ hiện nay không còn quan tâm và muốn học kỹ thuật viết chữ trên là buông nên nguy cơ nghề làm kinh lá sẽ thất truyền là khó tránh khỏi.
Số hóa chữ viết trên lá buông
Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá Buông của người Khmer tỉnh An Giang đến năm 2030” được coi là rất cần thiết và phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa của dân tộc.
Theo Đề án, giai đoạn 1 từ năm 2022-2026, tỉnh An Giang sẽ tập trung đánh giá, tập hợp, xác minh, phân loại và chỉnh lý phục hồi di sản; nghiên cứu và xác định chữ viết trên lá buông là tiếng Bali cổ hay tiếng Khmer cổ; hướng dẫn phương pháp bảo quản, gìn giữ các bản chữ viết trên lá buông.
Giai đoạn này, tỉnh cũng sẽ tư liệu hóa và số hóa các di sản chữ viết trên lá Buông của người Khmer trên địa bàn An Giang; xây dựng mới các dị bản của một số bộ Kinh phục vụ cho công tác giáo dục di sản và phát triển du lịch; dịch thuật một số nội dung Kinh lá Buông; tăng cường việc quảng bá, phát huy di sản nhằm thu hút mọi nguồn lực của xã hội….
Giai đoạn 2 từ năm 2028-2033, An Giang xây dựng hồ sơ đăng ký công nhận di sản tư liệu tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá Buông của người Khmer ở tỉnh An Giang thuộc chương trình ký ức thế giới khu vực Châu Á- Thái Bình Dương của UNESCO.
Theo đánh giá của Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, việc thực hiện đề án có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn các di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa phi vật thể nói riêng của An Giang; là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc kiểm kê, nhận diện, đánh giá thực trạng. Trên cơ sở đó, có thể áp dụng các biện pháp đề xuất nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản theo từng giai đoạn một cách hợp lý, khoa học.
T/h