Diễn từ Nobel văn chương

19:29 | 01/09/2021

Bob Dylan (24/5/1941), ca sĩ, nhạc sĩ, được giải Nobel văn chương 2016 vì đã “tạo ra một cách diễn đạt thơ mới bên trong truyền thống bài hát vĩ đại của nước Mỹ” như lời tuyên dương của Ủy ban Nobel. Nhân sinh nhật  80 tuổi của ông tôi VHVN xin trích giới thiệu bài phát biểu trong dịp nhận giải  Nobel văn chương qua bản dịch của nhà văn Phạm Xuân Nguyên.

Khi lần đầu tiên được nhận giải Nobel văn học này, tôi tự hỏi các bài ca của mình liên quan đến văn học chính xác là thế nào. Tôi muốn suy nghĩ về điều đó để xem các mối liên kết là ở đâu. Bây giờ tôi sẽ trình bày điều đó với các quý vị. Có lẽ như thế là phải đi theo một đường vòng, nhưng tôi hy vọng những điều tôi nói đây sẽ đáng giá và bõ công.

Nếu trở lại ngọn nguồn của mọi việc thì có lẽ tôi phải bắt đầu từ Buddy Holly. Buddy mất khi tôi khoảng mười tám tuổi và ông hai mươi hai. Kể từ lần đầu nghe ông chơi nhạc tôi đã cảm thấy thân thuộc. Tôi cảm thấy có sự liên hệ họ hàng, cứ như anh ấy là anh trai tôi. Thậm chí tôi còn nghĩ tôi giống anh ấy. Buddy chơi thứ nhạc mà tôi thích – thứ âm nhạc mà tôi đã lớn lên: nhạc country phương tây, nhạc rock ‘n’ roll, và nhạc rhythm and blues. Ba xu hướng âm nhạc riêng rẽ đã được anh nhào trộn và kết hợp thành một thể loại. Một nhãn hiệu (brand). Và Buddy còn viết bài hát – những bài hát có giai điệu đẹp và ca từ nhiều ý nghĩa. Anh còn hát rất hay và lại hát bằng nhiều giọng. Anh ấy là một nguyên mẫu. Là mọi thứ tôi không có nhưng đang muốn có. Tôi thấy anh ấy chỉ một lần duy nhất và đấy là mấy ngày trước khi anh qua đời. Tôi đã phải đi mấy trăm dặm để được xem anh biểu diễn và tôi đã không thất vọng.

Anh ấy là một người mạnh mẽ, uy nghi, đến đâu là tỏa ra dòng điện ở đấy. Tôi chỉ đứng cách anh ấy mấy bước chân. Anh ấy trông rất quyến rũ. Tôi quan sát khuôn mặt anh, cánh tay anh, cách anh gõ chân, chiếc kính đen của anh, cặp mắt sau kính, cách anh cầm cây ghitar, cách anh đứng, bộ quần áo trang nhã của anh. Tất thảy mọi thứ về anh. Anh ấy trông già hơn tuổi hai hai. Ở anh ấy toát ra cái gì đó vĩnh hằng và anh choán lấy tôi với sự tin chắc ấy. Thế rồi như tiếng sấm giữa trời quang, một điều rất huyền bí đã xảy ra. Anh ấy nhìn thẳng vào mắt tôi và nói một điều gì đó. Một điều gì đó tôi không thật biết rõ. Và nó khiến tôi rùng mình.

Tôi nghĩ đến nó một hoặc hai ngày sau khi chiếc máy bay chở anh bị rơi. Và rồi có ai đó – một người trước đây tôi chưa từng gặp – đưa cho tôi một đĩa ghi âm Leadbelly trong đó có bài “Cottonfields”. Cái đĩa ấy đã thay đổi cuộc đời tôi trong chớp mắt. Nó mang tôi tới một thế giới tôi chưa bao giờ biết. Đó giống như là một vụ nổ vậy. Giống như tôi đang đi trong bóng tối thì bất ngờ có ánh sáng bừng lên. Giống như có người đặt tay lên vai tôi. Có lẽ tôi đã nghe đi nghe lại đĩa nhạc đó hàng trăm lần.

Đó là một nhãn hãng mà tôi chưa bao giờ nghe tên, ở trong có kèm một cuốn quảng cáo cho các nhạc sĩ khác cùng ghi âm ở đó: Sonny Terry và Brownie McGhee, the New Lost City Ramblers, Jean Ritchie, dàn nhạc dây. Tôi chưa bao giờ nghe người nào trong số họ. Nhưng tôi nghĩ nếu họ được ghi cùng hãng với đĩa Leadbelly này thì chắc họ phải giỏi, nên mình cần phải nghe họ. Tôi  muốn biết tất cả điều đó và muốn chơi loại nhạc đó. Tôi vẫn còn tình cảm đối với thứ âm nhạc mà tôi đã lớn lên nhưng khi đó tôi đã quên nó. Tôi thậm chí còn không nghĩ đến nữa. Vào lúc đó nó đã biến mất.

Tôi chưa được phép rời nhà nhưng tôi không đợi được nữa. Tôi muốn học thứ âm nhạc này và gặp mặt những người chơi nó. Rốt cuộc tôi đã ra đi và đã học cách chơi những bài ca đó. Chúng khác với những bài trên đài phát thanh mà tôi thường nghe. Chúng rung động và thật với cuộc sống hơn. Với những bài hát trên đài, người chơi có thể đạt đỉnh (hit) với “a roll of the dice or a fall of the cards”, nhưng tất cả những cái đó không có nghĩa gì trong thế giới của nhạc folk. Mọi bài đều phải là đỉnh. Tất cả điều anh cần làm là phải có những bài thơ hay và biết chơi giai điệu. Một số bài này là đơn giản, số khác thì không. Tôi vốn có thiên hướng bẩm sinh đối với những bản ballad cổ xưa và nhạc blues theo phong cách country, nhưng còn mọi thứ khác thì tôi phải học từ số không. Trước tôi chỉ chơi cho một nhóm nhỏ nghe, đôi khi chỉ chừng bốn năm người ở trong phòng hoặc góc phố. Giờ anh phải có một nhạc mục lớn và phải biết chơi gì và khi nào. Một số bài có thể hát thân tình, nhưng có số bài khác thì anh phải hét lên cho mọi người đều nghe thấy.

Khi nghe tất cả những nhạc sĩ nhạc folk hồi đầu và tự mình hát các bài đó, anh sẽ học được tiếng nói dân dã. Nó sẽ bắt rễ trong anh. Anh hát nó trong các điệu blues của người da đen, trong các bài ca lao động, các bài hò của thủy thủ vùng Georgia, các bản ballad Appalachia và những bài hát cowboy. Anh nghe được tất cả các sắc thái tinh tế và anh học được các chi tiết.

Anh biết được tất cả những điều bài hát nói. Biết rút súng ra khỏi túi và đút lại súng vào túi nghĩa là gì. Biết đi băng qua giao thông đường phố và nói trong bóng tối là gì. Anh biết Stagger Lee là một gã tồi và Frankie là một cô gái tốt. Anh biết Washington là một thành phố tư sản và anh nghe được giọng trầm sâu của John người Phát Giác và anh thấy con tàu Titanic đâm vào một vũng lầy. Anh đánh bạn với kẻ lang thang ngỗ ngược người Ai Len và cậu bé thuộc địa nghịch ngợm. Anh nghe thấy tiếng trống khoan thai và tiếng sáo chậm rãi. Anh biết được lãnh chúa Donald đâm dao vào vợ mình và có đông bạn anh cuộn tròn trong chăn ấm.

Tôi biết hết mọi tiếng lóng dân dã. Tôi hiểu phép tu từ của chúng. Không cái gì qua khỏi đầu tôi – những cách thức, kỹ thuật, những sự bí mật, huyền bí – và tôi còn biết mọi con đường hoang mà người ta đã đi. Khi tôi bắt đầu viết những bài ca riêng của mình, thì thứ tiếng lóng folk là vốn từ duy nhất mà tôi biết, và tôi đã dùng nó.

Nhưng tôi còn có những cái khác nữa. Tôi có những nguyên tắc, những cảm nhận và sự hiểu biết thế giới. Và đây là lúc tôi có thể dùng chúng. Tôi học được chúng ở trường trung học. Don Kihote, Aivanho, Robinson Crusoe, Gulliver ký, Truyện hai thành phố – đó là danh mục sách đọc điển hình ở nhà trường đưa lại cho anh cách nhìn cuộc sống, sự hiểu biết bản tính con người và chuẩn mực để đo lường mọi việc. Tôi đã mang theo tất cả những cái đó khi bắt đầu viết nhạc. Và những đề tài của các cuốn sách đó cũng đã thấm vào các bài hát của tôi, dù có ý thức hay ngẫu nhiên. Tôi muốn viết những bài hát khác với các loại bài hát mọi người từng nghe và đề tài phải là cơ bản.

Có những cuốn sách đặc biệt đi mãi với tôi kể từ khi tôi đọc chúng lần đầu ở trường trung học – ở đây tôi chỉ muốn kể với quý vị ba cuốn: Moby Dick, Phía Tây không có gì lạ và Odyssey.

Moby Dick là một cuốn sách quyến rũ, một cuốn sách đầy những cảnh kịch tính và đối thoại mang tính kịch. Một cuốn sách đòi hỏi cao ở người đọc. Cốt truyện không có gì rắc rối. Vị thuyền trưởng bí ẩn Ahab – thuyền trưởng của con tàu mang tên Pequod –  là một người rất ích kỷ mang một chân gỗ truy đuổi kẻ thù truyền kiếp của mình, con cá voi trắng Moby Dick, kẻ đã ngoạm mất một chân của ông ta. Và ông ta truy đuổi nó khắp Đại Tây Dương tới châu Phi đến Ấn Độ Dương. Ông ta truy đuổi con cá voi quanh cả hai bờ trái đất. Đó là một mục tiêu mơ hồ, không có gì cụ thể hay xác định. Ông ta gọi Moby là hoàng đế, xem nó như hiện thân của cái ác. Ahab để vợ con ở lại Nantucket, nơi mà ông ta thường nhớ tới. Quý vị có thể đoán được những gì sẽ xảy ra.

Đội tàu gồm những người thuộc các chủng tộc khác nhau và bất kỳ ai thấy được con cá voi sẽ được thưởng một đồng tiền vàng. Trong sách có nhiều biểu tượng hoàng đạo, phúng dụ tôn giáo, các định kiến. Ahab gặp các tàu săn cá voi khác và hỏi các thuyền trưởng về Moby. Họ có thấy nó không? Có gã tiên tri khùng tên Gabriel ở trên một con tàu đó đã tiên đoán số phận của Ahab. Gã nói Moby là hiện thân của thần Shaker và bất kỳ sự đụng chạm nào với nó cũng sẽ dẫn tới thảm họa. Gã nói điều này với Ahab. Một thuyền trưởng khác là Boomer đã bị mất cánh tay khi đụng độ Moby. Nhưng ông ta đã dịu xuống, thấy mình may còn sống sót. Ông ta không chấp nhận cơn khát báo thù của Ahab.

Cuốn sách này kể về việc những người khác nhau phản ứng khác nhau trước cùng một kinh nghiệm. Có nhiều phúng dụ trong kinh thánh, Cựu Ước: Gabriel, Rachel, Jeroboam, Bildah, Elijah. Pagan names as well: Tashtego, Flask, Daggoo, Fleece, Starbuck, Stubb, Martha’s Vineyard. Các vị đa thần giáo được thờ. Một số tượng thờ nhỏ bằng sáp, số khác bằng gỗ. Lại có người thờ thần lửa. Bản thân cái tên tàu Pequod cũng là tên của một bộ lạc ở Ấn Độ.

Moby Dick là câu chuyện đi biển. Một trong những người đàn ông, người kể chuyện, nói “Hãy gọi tôi là Ishmael”. Có người hỏi ông ta từ đâu đến, ông ta nói “Nó không có trên bản đồ. Đó không bao giờ là những nơi chốn thực sự cả”. Stubb không coi trọng điều gì, nói mọi thứ đều do tiền định. Ishmael đã sống suốt đời trên những con thuyền buồm. Gọi những con thuyền đó là Harvard và Yale. Ông ta giữ khoảng cách với mọi người.

Tài Pequod gặp bão. Thuyền trưởng Ahab nghĩ đó là điềm lành. Starbuck cho đó là điềm xấu, định giết Ahab. Vừa khi cơn bão tan, một thủy thủ đoàn bị rơi từ cột buồm xuống, báo trước những điều sẽ đến. Một linh mục Quaker hiền lanh mà giờ là một doanh nhân khát máu, nói với Flask “Một số người bị xúc phạm được về với Chúa, số khác phải chịu đau khổ”.

Mọi thứ được trộn lẫn với nhau. Có đủ các huyền thoại: kính thánh Thiên Chúa giáo về Judeo, huyền thoại Hindu, truyền thuyết Anh, Saint George, Perseus, Hercules – tất cả họ đều là thợ săn cá voi. Kho huyền thoại Hy Lạp, nghề cắt đầu cá voi đẫm máu. Nhiều thực tế trong sách này, kiến thức địa lý, dầu cá voi – thực phẩm dành cho lễ đăng quang của nhà vua – những gia đình quý tộc trong ngành công nghiệp săn cá voi. Dầu cá voi được dùng để xức cho nhà vua. Lịch sử cá voi, khoa tướng số học, triết học cổ điển, những lý thuyết ngụy khoa học, sự biện minh cho tội ác – mọi thứ đều được ném ra và không thứ nào hợp lý. Người có học, người ít học, săn lùng ảo ảnh, săn lùng cái chết, cá voi trắng khổng lồ, trắng như gấu bắc cực, trắng như người da trắng, hoàng đế, kẻ thù truyền kiếp, hiện thân của quỷ. Vị thuyền trưởng cuồng nộ đã mất một chân nhiều năm trước tìm mọi cách tấn công Moby bằng dao.

Chúng ta thấy chỉ bề mặt của sự việc. Chúng ta có thể lý giải cái nằm ở bên dưới theo cách của mình. Thủy thủ đoàn đi quanh boong tàu lắng nghe người cá, bầy cá mập và kền kền đuổi theo tàu. Đọc những sọ người và mặt người như đọc một cuốn sách. Đây là một khuôn mặt. Tôi đặt nó trước quý vị. Hãy đọc nó nếu quý vị muốn.

Tashtego nói rằng ông ta đã chết và được sinh lại. Những ngày sống thêm này là một món quà. Dù ông ta không phải được Chúa cứu vớt, ông ta nói mình được một người bạn cứu và đó không phải là một người Cơ Đốc giáo. Ông ta nhại sự phục sinh.

Khi Starbuck nói với Ahab rằng ông ta nên quên chuyện cũ đi, vị thuyền trưởng đã tức giận bật lại “Đừng nói với tôi điều báng bổ đó, tôi sẽ đập cả mặt trời nếu nó xúc phạm tôi”. Ahab cũng là một nhà thơ hùng biện. Ông ta nói “Con đường đi đến mục đích đã định của tôi được lát bằng đường ray cho tâm hồn tôi chạy đều trên đó”. Hoặc những dòng này “Tất cả những vật hữu hình đều không gì khác là những mặt nạ giấy bồi”. Những câu như thơ có thể trích dẫn mà không cần phải thêm âm điệu.

Cuối cùng Ahab phát hiện ra Moby và lao được phóng ra. Các con thuyền được hạ xuống nước. Lao của Ahab đã được rửa tội trong máu. Moby tấn công thuyền của Ahab và phá tan nó. Hôm sau, ông ta lại thấy Moby. Thuyền lại được hạ xuống. Moby lại tấn công thuyền của Ahab. Ngày thứ ba một thuyền khác vào cuộc. Thêm một phúng dụ tôn giáo. Con cá voi điên lên. Nó tấn công một lần nữa, đâm thủng Pequod khiến con tàu bị chìm. Ahab lúng túng với mũi lao bị văng ra khỏi thuyền xuống biển thành mồ chôn.

Ishmael sống sót. Ông ta lênh đênh trên biển trong một chiếc quan tài. Tất cả chỉ có thế. Chuyện chỉ có thế. Đề tài này và tất cả những gì nó ngụ ý đã thấm vào không ít bài hát của tôi.

Phía Tây không có gì lạ là một cuốn sách khác đã ám ảnh tôi mạnh. Phía Tây không có gì lạ là một câu truyện kinh hoàng. Đó là cuốn sách nơi anh bị mất tuổi thơ, mất niềm tin vào một thế giới có ý nghĩa và mất sự đồng cảm với con người. Anh bị rơi vào cơn ác mộng. Bị sục vào xoáy nước bí ẩn của cái chết và nỗi đau. Anh phải tự bảo vệ mình khỏi sự hủy diệt. Anh bị cuốn khỏi bề mặt trái đất. Ngày xưa anh trẻ trung hồn nhiên với những giấc mơ lớn như trở thành một người chơi piano trong buổi hòa nhạc. Ngày xưa anh yêu cuộc đời và thế giới, giờ đây anh bắn nó tan tành.

(Ngân Xuyên dịch từ tiếng Anh)

Ảnh: Bob Dylan năm 1965.

Cùng chuyên mục

Cư Kuin: Phát huy hiệu quả nguồn vốn ủy thác

Cư Kuin: Phát huy hiệu quả nguồn vốn ủy thác

Tinh thần Điện Biên Phủ trên sàn tập “Mệnh lệnh từ trái tim”

Tinh thần Điện Biên Phủ trên sàn tập “Mệnh lệnh từ trái tim”

Khơi dậy tinh thần đọc sách đến học sinh tiểu học Thủ đô

Khơi dậy tinh thần đọc sách đến học sinh tiểu học Thủ đô

Quảng Bình: Người dân xã Vạn Ninh hiến đất để mở rộng đường giao thông

Quảng Bình: Người dân xã Vạn Ninh hiến đất để mở rộng đường giao thông

Gia Lai: Sôi nổi Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc thiểu số ở huyện Krông Pa

Gia Lai: Sôi nổi Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc thiểu số ở huyện Krông Pa

Hà Tĩnh: Tổ chức thành công “Hội thi Tổ liên gia an toàn PCCC” tại huyện Đức Thọ

Hà Tĩnh: Tổ chức thành công “Hội thi Tổ liên gia an toàn PCCC” tại huyện Đức Thọ

Quảng Bình: Huyện Minh Hóa khai mạc tuần Lễ hội

Quảng Bình: Huyện Minh Hóa khai mạc tuần Lễ hội

Hà Tĩnh: Nuôi dưỡng, phát huy văn hóa đọc cho giáo viên và học sinh

Hà Tĩnh: Nuôi dưỡng, phát huy văn hóa đọc cho giáo viên và học sinh

Bắc Giang: Khai mạc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2024

Bắc Giang: Khai mạc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2024