“Cho đến trước những ngày tháng 7 năm 2001, mỗi lần đi qua số nhà 30 Hoàng Diệu, tôi vẫn được nghe bạn bè thì thầm: Đại tướng ở nơi đây. Chỉ vậy thôi mà đã tim đập bồi hồi. Nhiều khi dừng chân nán lại, ngó vào chốn cây xanh che rợp phảng phất của nơi tu tịch, nhìn những quân nhân chỉnh tề trang nghiêm túc trực trước cổng khu nhà mà lòng tôi chỉ thầm mong thấp thoáng bóng dáng Người dạo trong khuôn viên cây lá đó” – Hồi ký Bùi Quang Thanh.
Năm năm trong quân ngũ, có 3 năm ở chiến trường Tây Nguyên ác liệt và gian khổ, ra khỏi lính tôi được đồng đội gọi là Hạ sĩ “lưu niên”. Thông thường, mỗi quân nhân trong lực lương quân chính quy “Bắc Việt”, chỉ 6 tháng sau khi nhập ngũ (là tân binh – Binh nhì) thì được phong quân hàm từ Binh nhì lên Binh nhất, sau 12 tháng (hoặc chậm nhất là 18 tháng) sẽ từ Binh Nhất lên Hạ sĩ – nghạch đầu tiên của Hạ sĩ quan. Rồi sau đó là Trung sĩ, Thượng sĩ… lên đến cấp Đại tướng phải qua…17 lần phong quân hàm như thế. Đương nhiên, mỗi cấp hàm sẽ gắn với chức vụ được giao; và đương nhiên phải phù hợp năng lực, học vấn, trí tuệ, tư chất, tác phong, sự cống hiến… và cả may mắn nữa.
Chẳng phải tôi thiếu những yêu cầu và yếu tố trên, bởi sau này tôi cũng khá “oách”, cũng trở thành nhà thơ, nhà văn, nhà ảnh (có giải thưởng trung ương )… và có tên tuổi hẳn hoi. Nhưng 5 năm lính, ra quân, chuyển ngành, cũng có Huân chương này, Huy chương nọ mà chỉ là Hạ sĩ thì chỉ những người trong cảnh ngộ bọn tôi mới biết, mới cảm thông.
Tôi vào lính, viết đơn bằng máu của chính mình từ một mái trường Trung học chuyên nghiệp ở Hà Nội – Trường Trung cấp Giao thông thủy – bộ mà hồi đó khi được giáo thuyết của giảng viên chính trị nhà trường thì 3 năm sau chúng tôi sẽ là ông “Tham”, ông “Phán” về kỹ thuật để giúp Đảng, giúp Dân, giúp Đời.
Bác Hồ mất, chúng tôi khóc dầm nước mắt. Tang lễ Người xong, tôi và nhiều Đoàn viên thanh niên nữa viết đơn bằng máu ra chiến trường. Để đủ cân, đủ lạng vào lính, tôi bỏ thêm một cục gạch vào chiếc quần âu rộng thùng rộng thềnh mà ông chú ruột, sau này là Nhà văn Bùi Cẩm Kỳ – một kỹ sư bưu điện – tặng cho. Bà Vân y tá của trường mắng tôi: “Bố mày! Nhóc con thế làm sao đeo nổi ba lô con cóc mà vô lính, hả?” Tôi phải khẩn khoản với bà, rằng tôi chỉ thiếu mấy lạng thôi, các tiêu chuẩn khác đủ cả.
Với trọng lượng (cả gạch, cả quần áo) 42,5kg, tôi được kết luận sức khỏe B1, đủ điều kiện nhập ngũ và tháng 12-1969, tôi có mặt trong đội hình tiểu đòan 2B, một đơn vị độc lập của Sư đoàn 304B. Tiểu đoàn tân binh gồm 642 sinh viên các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp thuộc khu vực Hà Nội và Vĩnh Phú lên tàu từ Vĩnh Yên, sang ga Phổ Yên rồi về Cầu K ở đất Phú Bình thuộc tỉnh Bắc Thái huấn luyện.
Một chiều đầu xuân 1970, Trung đội 50 người trong đó có tôi về Sơn Tây để đặt những nhát cuốc đầu tiên khởi công xây dựng Nhà máy Q151 – nay là Z151 thuộc Cục Quản lý xe , Tổng cục Hậu cần. Rồi tôi được điều sang Trường Trung cấp Kỹ thuật xe – nay là Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật ô tô học. Tháng 12/1971, một Tiểu đoàn xe cơ giới được thành lập bổ sung cho mặt trận Tây Nguyên, tôi có mặt trong đội hình Tiểu đoàn vận tải ấy và xuyên dọc Trường Sơn vào B3 gian khổ.
Đơn vị xe chúng tôi hành quân 2 tháng ròng rã trên đường Tây Trường Sơn, dưới sự phong tỏa của không lực Mỹ với những loại máy bay trinh sát OV10, L19B và mụ “Bà già” C130 được trang bị các loại kính hồng ngoại, súng cối, pháo liên thanh 20 ly rình rập, quần thảo ngày đêm. Đó là chưa kể, chỉ một nghi ngờ nhỏ, một viên đạn chỉ điểm bằng khói tím hoặc trắng bung lên là hàng đàn phản lực, B57, B52…sẽ bu đến rỉa mồi. Có xe đã cháy, có người đã hy sinh nhưng rồi đơn vị vẫn kịp vào nơi tập kết, chấn chỉnh đội hình, lao vào tham gia các chiến dịch giải phóng Tây Nguyên mùa xuân 1972. Đó là những chiến thắng ở Đăk Tô – Tân Cảnh, những trận huyết chiến ở Kon Tum, Bến Héc… tạo đà giải phóng phần lớn Tây Nguyên.
Trước thời điểm ta hoàn toàn làm chủ bắc Kon Tum, hầu hết các xa lộ do địch kiểm soát. Các đơn vị chủ lực của Quân Giải phóng chỉ ở sâu trong rừng, lấy đêm làm ngày, lấy rừng lá lớp lớp ken dày làm nơi che chở. Từ đó hành quân ra bao vây, tập kích địch trong đồn hay địch di chuyển trên quốc lộ. Với đơn vị cơ giới chúng tôi, vào đến nơi tập kết là phải đào hầm ếch đẩy xe vào cất giấu rồi đi gùi, đi thồ, đi sửa chữa xe…đap cho các Tiểu đoàn vận tải bằng …xe đạp của ta. Chỉ sau trận Đăk Tô mới được tiếp cận, thu hồi xe quân dụng của địch phục vụ cho vận tải.
Tôi loay hoay phân trần cái chức Hạ sĩ “quèn” của mình không phải để hơn thua chuyện công lao, hưởng thụ, mà là vì một kỷ niệm không thể nào quên với vị Đại tướng kính yêu của toàn Quân, toàn Dân ta vừa cất cánh về cõi vĩnh hằng. Chỉ những ngày này, trong nỗi đau thương, nhớ tiếc của cả dân tộc và rất nhiều người trên thế giới về sự ra đi của vị Đại tướng Tổng Tư lệnh – nhận vật kiệt xuất về quân sự, sách lược; tấm gương bình dị, nhân ái, gần gũi với đồng chí, đồng đội, đồng bào; về những kỷ niệm riêng của mình (tôi) – một người lính “trơn” trong đội ngũ triệu người của Ông mà lòng nghẹn ngào không thể không ghi lại cái rất riêng của mình những lần gặp Đại tướng kính yêu.
Vào Tây Nguyên trước chúng tôi có cả một xưởng sửa chữa ô tô nhưng các anh ấy chưa bao giờ được thấy cái xe nhà mình nổ máy trên đường, vì vậy họ cũng được điều động gùi, thồ, làm rẫy, đốt than, săn bắt cá và thú rừng làm lương thực cho mặt trận và tất tật những gì cách mạng yêu cầu. Khác với lính chiến, hy sinh, thương tật liên tục, quân số bổ sung hàng ngày, thậm chí hàng giờ, “lính buổi mai cai lính buổi chiều” là dĩ nhiên. Vì vậy hầu hết chức vụ nhanh hơn cấp bậc. Riêng lính hậu cần thì …còn lâu. Không có chức vụ thì không có cấp bậc, thì cứ việc ai nấy làm. Có người vô Nam từ năm 1960 mà đến ngày giải phóng, ngót 15 năm không một lần phong quân hàm. Áo quần, nhu yếu phẩm chẳng có chu cấp nói chi đến cấp chức nọ kia. Vì vậy chỉ lực lượng hậu cần mới biết, mới thông cảm cho nhau cái sự “chậm tiến’ ấy. Và các bạn, cũng hiểu vì sao tôi, suốt 5 năm lính vẫn chỉ là Hạ sĩ “quèn”.
Cho đến trước những ngày tháng 7 năm 2001, mỗi lần đi qua số nhà 30 Hoàng Diệu, tôi vẫn được nghe bạn bè thì thầm: Đại tướng ở nơi đây. Chỉ vậy thôi mà đã tim đập bồi hồi. Nhiều khi dừng chân nán lại, ngó vào chốn cây xanh che rợp phảng phất của nơi tu tịch, nhìn những quân nhân chỉnh tề trang nghiêm túc trực trước cổng khu nhà mà lòng tôi chỉ thầm mong thấp thoáng bóng dáng Người dạo trong khuôn viên cây lá đó. Rồi lần ấy, Đại tá, Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng cho tôi xem những bức ảnh chụp về Đại tướng, rất nhiều, rất đẹp và rất sinh động. Qua ảnh, tôi biết Trần Hồng đang rất gần gũi với Đại tướng và cuộc sống thường ngày của Ông. Trần Hồng khoe với tôi là anh đang được báo Quân đội nhân dân đặc cách vào ra Phủ Đại tướng để ghi lại cuộc sống, lao động, giao tế… của Đại tướng; vừa chuẩn bị cho những ngày sắp tới mừng sinh nhật lần thứ 90 của Ông và làm tư liệu lưu lại cho mai sau. Tôi bảo Trần Hồng, tôi có thể “quá giang” vô dinh Cụ được không? Trần Hồng rụt rè trả lời: cũng có thể.
Trần Hồng gọi điện xin ý kiến của Đại tá Huyên, thư ký của Đại tướng. Để thuyết phục vị đại tá thư ký, Trần Hồng giới thiệu tôi là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, là cựu binh cũ từng chiến đấu ở Tây Nguyên, cũng là …nhà nhiếp ảnh ở một tờ báo văn nghệ ở miền Trung muốn tiếp cận Đại tướng để có tác phẩm nhân ngày sinh nhật Cụ (hồi đó tôi đang là phóng viên, Biên tập viên Tạp chí Hồng Lĩnh thuộc Hội Văn nghệ Hà Tĩnh). Đại tá Huyên đồng ý và hẹn buổi chiều hôm ấy, đúng 3 giờ.
Cuộc yết kiến ấy, ngoài Trần Hồng và tôi còn có nghệ sĩ Trần Định ở Việt Nam Thông tấn xã và bạn tôi, Tiến sĩ Dương Thanh Biểu vừa giữ chức Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát tối cao. Anh Biểu nguyên là Đại đội trưởng một đại đội chủ công của Trung đoàn 28, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3; đã từng là Dũng sĩ diệt Mỹ ở mặt trận Tây Nguyên những năm 70 thế kỷ trước. Cả Trần Hồng và Trần Định (Nghệ sĩ nhiếp ảnh, Nhà báo ở VNTTX) đã thu xếp để anh Biểu cùng được vào thăm Đại tướng. Đại tá Huyên tiếp chúng tôi ở phòng trưng bày kỷ vật của Phủ Đại tướng. Ông bảo Đại tướng đang có khách nước ngoài, đề nghị mọi người đợi ở đây và tranh thủ xem các phòng lưu niệm. Ấn tượng của hiện vật trưng bày là những hình ảnh về Bác Hồ, là những lá cờ thắm đỏ chiến công, những lá thư, cuốn thư chúc phúc Tổng Tư lệnh của các đơn vị quân, dân, chính, đảng trong nước và cả bạn bè năm châu. Hầu hết thư, thơ, đối, vịnh…của các đơn vị quân đội đều một “Anh Văn” hai “Anh Văn”…
Tôi chợt nhận ra một điều kỳ diệu đến lý thú, về hai Con Người Việt Nam xuất chúng ở thời đại chúng ta: Bác Hồ và Tướng Giáp. Một người vĩ đại đến mức chỉ mới 55 tuổi mà cả nước đã coi là Cha Già Dân Tộc, là Bác, là Cụ, là Người. Dù Bác đã về cõi tiên ngót nửa thế kỷ, những từ nhân xưng đó vẫn không hề thay đổi. Còn một người, dù đã ngót trăm tuổi, đã đeo hàm Đại tướng tổng Tư lệnh trên nửa thế kỷ thì cán bộ, chiến sĩ, đồng đội , nhân dân vẫn yêu quý, thân tình gọi bằng Anh. Đó cũng là một sự vĩ đại. Không chỉ hôm nay và chắc chắn sẽ mãi về sau, con cháu chút chít của Người vẫn yêu mến gọi bằng “Anh”: Anh Văn của chúng ta.
Mấy chục phút ấy, tôi biết mình không thể xem hết, đọc hết cả một “kho” tư liệu quý giá và nghĩ chẳng bao giờ mình còn có dịp vinh hạnh được trở lại đây, tôi chụp lấy chụp để những kỷ vật, mở máy ghi âm đọc và ghi những lời thơ, lời chúc, lời đối… mong lưu lại cho mình. Rồi Đại tướng xuất hiện ở bậc cửa phòng khách, thong thả bước xuống sân, đi sang nhà trưng bày kỷ vật, nơi mấy anh em chúng tôi thấp thỏm trông chờ. Bên Đại tướng là Hà phu nhân, phía sau có mấy người nam và nữ cùng đi xuống nữa.
Tôi lặng người ngắm Ông. Mái tóc bạc trắng, da mặt hồng hào, bộ áo quần bằng lụa màu trắng ngà mềm mại, tư thế ung dung, nét mặt tươi vui và ánh mắt nhân từ, phúc hậu. Tôi liên tưởng đến một ông tiên trong cổ tích; tôi nghĩ đến hình dáng ông nội tôi ngày xưa và chợt thấy vững tin, mọi ngại ngần e dè, xa lạ biến mất và chúng tôi mạnh bạo đi về phía Ông. Đại tướng bắt tay mọi người, nghe giới thiệu từng vị khách không mời mà đến rồi vui vẻ nói với Đại tá Huyên, cũng là nói với chúng tôi: “Chiều đẹp thế này, chúng ta ra vườn ngồi cho thoáng”. Rồi Đại tướng đi về phía vườn sau, nơi có một bộ bàn ghế đặt ngoài trời. Ông ngồi xuống, Hà phu nhân ngồi bên trái Ông, chị Võ Hồng Anh (Con gái của Đại tướng và Liệt sĩ Nguyễn Quang Thái) ngồi cạnh Hà phu nhân. Anh Võ Điện Biên và mấy cô con gái của Đại tướng cùng đứng sau lưng bố mẹ. Đại tướng chỉ hai chiếc ghế rời đối diện bảo anh Dương Thanh Biểu và tôi ngồi xuống. Lúc này Đại tá Huyên đã xin phép đi về phòng, các anh Trần Định, Trần Hồng đang tác nghiệp với máy ảnh trên tay, trên vai. Tôi được ngồi với Đại tướng vừa sung sướng, vừa bối rối cảm động.
Anh Biểu cũng chưa biết phải nói gì thì Đại tướng hỏi: “Cán bộ nhân viên Viện Kiểm sát của chú đời sống có đỡ không?” Được gợi ý, anh Dương Thanh Biểu mạnh dạn báo cáo sơ bộ tình hình đời sống, công việc của ngành Kiểm sát với Ông. Đại tướng chăm chú nghe, đôi mắt nhìn thẳng vào người nói chuyện, đầu gật nhẹ, khuyến khích. Ông hỏi anh Biểu về thông tin một số quan chức, cán bộ ngành công an, báo chí, kiểm sát dính vào một số vụ tiêu cực trong các vụ án Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh, Ông tỏ ý buồn khi nghe những thông tin đó.
Đại tướng hỏi chúng tôi mà như trò chuyện thân tình giữa ông cháu, về nghề nghiệp làm báo, viết văn, hỏi về những tháng ngày tham gia quân đội. Dương Thanh Biểu say sưa kể cho Ông và Hà phu nhân nghe những ngày ở Tây Nguyên đánh giặc, mắt ông sáng lên, trẻ trung và đồng cảm. Tôi không dám nói gì vì ngại kể về mình, một chàng lính “trơn” từ chiến trường ra và cũng chỉ được làm Lính Cụ Hồ có 5 năm, so với bao người khác mình đâu dám múa rìu qua mắt thợ. Nhất là ngồi trước vị Đại tướng lừng danh.
Nghệ sĩ Trần Định rất biết mong muốn của chúng tôi là được chụp ảnh với Đại tướng. Anh đi ra phía sau lưng Ông, lễ phép: “Thưa Đại tướng và phu nhân, cháu xin phép được chụp ảnh gia đình Đại tướng với hai cựu chiến binh từng chiến đấu ở chiến trường B3 để làm lưu niệm ạ!” Cả Đại tướng và Hà phu nhân đều vui vẻ gật đầu. Ông bảo anh Biểu, tôi, cùng các cô con gái đứng phiá sau ông bà, anh Võ Điện Biên ngồi bên phải Ông để Trần Định bấm máy. Bức ảnh đầu tiên chúng tôi được chụp với Đại tướng và gia đình của ông, sau này nhiều tờ báo in rất trang trọng với chú thích: Đại tướng trong khuôn viên gia đình.
Trời ngả về chiều, nắng chếch vàng óng xuyên qua các tán cây xanh. Đại tướng đề nghị mọi người bách bộ trong vườn, vừa đi vừa trò chuyện. Hà phu nhân đang muốn tìm hiểu về những vụ án lớn mà các cơ quan pháp luật đang thụ lý nên bảo anh Biểu đi cùng để nói chuyện. Tôi được đi bên Đại tướng, phía kia là anh Võ Điện Biên. Cả tôi và Võ Điện Biên mỗi người đều vai đeo máy ảnh. Đại tướng hỏi tôi: “Thế cậu nhà văn có đi bộ đội không nhỉ?”. “Thưa bác, cháu có năm năm trong quân đội ạ. Cháu cũng vào chiến trường Tây Nguyên ạ.”. Đại tướng gật đầu: “Tây Nguyên gian khổ lắm, thiếu đói lắm. Cậu ở chiến trường từ năm nào”? “Dạ: cháu ở từ năm bảy mốt đến năm bảy tư ạ”. Ông nhìn tôi, cười rồi hỏi tiếp: “Thế ra quân, cậu cấp bậc gì? Chức vụ gì?” . Bị chạm vào chổ yếu của mình, tôi đỏ mặt và lí nhí: “Dạ thưa, cháu là …hạ sĩ ạ”. Ông bật cười: “Hạ sĩ? Sao chậm thế?” Bị bật vào đúng nỗi niềm, tôi vừa muốn thanh minh, vừa muốn thay mặt những người lính hậu cần Tây Nguyên hồi ấy bày tỏ với vị Tư lệnh tối cao của mình về những bất cập thời chiến ấy, nhưng nhìn mắt Ông rất vui, có vẻ thú vị, như có vẻ chế diễu anh chàng văn thơ mà chậm tiến trong quân ngũ, tôi buột miệng trả lời Ông: “Báo cáo Đại tướng, như vậy là cháu được phong quân hàm hai lần đấy ạ. Một lần từ Binh nhì lên Binh nhất và một lần từ Binh nhất lên Hạ sĩ. Còn…Đại tướng…gần sáu chục năm chỉ được phong… một lần thôi ạ.” Buông xong câu trả lời ấy, tôi cứng giọng, kinh hãi vì mình… hỏng mất rồi. Định lấy cái thấp tẹt của tôi để ngưỡng mộ cái cao vời vợi của Ông, một nhát lên ngay Đại tướng, không qua bất cứ cấp hàm nào và mãi mãi là vị Đại tướng của toàn quân. Nhưng có vẻ không ổn? Có vẻ tôi đã chạm vào cái gì đó trắc ẩn của Ông…
Tôi thảng thốt chờ một sự biểu hiện trên nét mặt của Ông, rồi vội vàng quay mặt sang phía Võ Điện Biên. Cũng may, anh Võ không để ý câu chuyện giữa tôi và Đại tướng, anh đang nhìn về phía đoàn của Hà phu nhân. Đại tướng cầm tay tôi: “Cậu láu lắm!” Tôi nắm chặt bàn tay ấy, ấm áp, mềm mại và vị tha. Chợt Đại tướng nói nhanh: “Cậu đưa máy ảnh đây, đẹp quá” Ông cầm lấy chiếc máy Nikon của tôi. Tôi gỡ vội dây đeo đang quàng trên vai trao cho Ông và nhìn về phía Ông đang dõi theo: Hà phu nhân, anh Biểu, chị Võ Hồng Anh và hai con gái của Đại tướng đang đi vào một vùng nắng vàng óng, sóng sánh sắc thu. Giữa vườn xanh, những sợi nắng chếch buổi hoàng hôn đẹp quá. Ông gọi Hà phu nhân đứng lại trong vùng nắng, nâng máy và quỳ xuống ngắm. Nhìn ông nâng chiếc máy ảnh và chăm chú lấy nét, tôi cảm giác đó là một nghệ sĩ thực thụ đang tác nghiệp, đó là một người lính đang nâng súng, thành thục đến lão luyện; đó là một tiên ông… Chợt Đại tướng vẫy tôi: “Cậu, chuyển sang lấy nét tự động cho chính xác.”, Tôi bước nhanh đến, lẩy từ nấc M sang chế độ chụp tự động cho ông rồi bước lùi lại mấy bước, ngắm Ông tác nghiệp.
Phút hạnh phúc hiếm hoi đó đã được nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Định ghi lại từ một góc không thể đẹp hơn khi Đại tướng đang quỳ, nâng máy ngắm vào mục tiêu, còn tôi và Võ Điện Biên thành kính đứng bên Người, ngưỡng mộ!.
Đêm 07/10/2013
Bùi Quang Thanh