Tuy chỉ là một Giáo thụ, nhưng vì tài năng và đức độ hiếm có, Nguyễn Hy Quang đã trở thành bậc sư thần nhà Lê.
Hơn 200 năm trước, Thần Siêu đánh giá Nguyễn Hy Quang là: “Sư phó công danh kì tế ngộ” – nghĩa là nhà giáo như ông thật hiếm có. Sau khi qua đời, vị Giáo thụ ấy được nhà Lê phong làm Phúc thần Đại vương, được dân tôn làm Thành hoàng làng.
Thầy giáo làng Trung Tự
Từ cổng làng Trung Tự, phường Phương Liên (Đống Đa – Hà Nội), sải thêm vài bước chân nữa là chạm tới ngôi đình cổ kính. Cây thị thần án ngữ bên tả đình được coi là nhân chứng của ngôi làng cổ nổi tiếng kinh kỳ sau buổi tao loạn, vẫn sừng sững đứng đó tỏa bóng mát rượi.
Ông Mai Thế Tế, Trưởng ban Quản lý di tích đình Trung Tự sau một hồi dẫn khách giới thiệu về những bia đá, sắc phong và cả kiến trúc độc lạ của đình, thì câu chuyện lại được hướng về Thành hoàng làng đầy tôn kính mà cũng rất gần gũi, mực thước.
Đó là cụ Nguyễn Hy Quang, sinh năm Giáp Tuất, niên hiệu Đức Long (1634) quê ở làng Trung Tự, phường Đông Tác, huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long xưa.
Theo những dòng sử để lại thì gia đình thầy giáo Nguyễn Hy Quang đã đến định cư tại Thăng Long từ giữa thời Lê sơ. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 16, đất làng Trung Tự bị một viên Thái phó là Việt Quận công chiếm mất. Từ đó, dân làng này phải sang trú nhờ làng Kim Hoa ở kế bên.
Nguyễn Hy Quang ra đời trong cảnh nghèo khó, nhưng một thầy tướng số trông thấy ông dạo bước ở hồ Dâm Đàm thì khen rằng: “Đây là bậc hiền năng như Trương Lương đời Hán, Ngụy Trưng đời Đường. Ngày sau tất sẽ làm việc lớn phò vua giúp nước”.
Theo các cao niên làng Trung Tự, thì thuở nhỏ Nguyễn Hy Quang học ở nhà, sau theo học thầy Nguyễn Tự Huy người huyện Đông Sơn – Thanh Hoá. Theo thầy hai năm, Hy Quang chuyển sang học quan Trưởng sử họ Trần (huyện Chương Đức). Sau đó, ông về nhà tự học thêm 3 năm nữa. Nhờ vậy mà ông thông Nho thạo Nôm, kiến thức cổ kim đều tỏ. Đề đốc Văn Phụng hầu Phạm Công Túc vì mến tài mà gả con gái cho.
Năm 23 tuổi (1657), Nguyễn Hy Quang tham dự kì thi Hương khoa Đinh Dậu đỗ giải Nguyên nhưng sau đó thi Hội lại trượt. Năm 1670, ông đỗ khoa Sĩ Vọng. Sau được bổ làm Giáo thụ phủ Thường Tín. Chỉ sau hai năm làm thầy giáo, tiếng đồn về tài năng và tính cương trực cùng lối sống thanh bạch cần cù của ông đã lan xa.
Sư thần nhà Lê
Ngày nay, những dòng bia sử ở đình Trung Tự tuy không còn rõ nét. Mấy trăm năm mưa gió đã phần nào làm bạc bia mòn chữ nhưng những công lao của thầy giáo Nguyễn Hy Quang thì vẫn sáng như gương ngọc.
Chức tước đáng ghi đầu tiên mà một người thầy làng Trung Tự nắm giữ là Lang trung bộ Lại kiêm Tri bộ Hộ và được giao thêm việc dạy Trịnh Bính – con của Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh.
Khi Trịnh Bính còn ít tuổi, ông thường dắt lên điện đình, chỉ bảo cặn kẽ. Sau này, ông tham dự phụ tá việc nhiếp chính của Trịnh Bính.
Vị thế quan trọng, nhưng cũng đầy phức tạp đã khiến thầy giáo Hy Quang chịu không ít thị phi. Tuy nhiên, ông đã dốc hết tâm sức làm tròn. Nghe chuyện bịa đặt dèm pha, ông vẫn cứng cỏi không dao động, lấy khuôn phép người xưa để tự mình gắng sức.
Đối với việc dạy Trịnh Bính, Nguyễn Hy Quang nghĩ chuyện dài lâu nên coi trọng dạy những kiến thức và đức tính cần thiết với quản lý đất nước. Năm 1688 chúa Định vương Trịnh Căn phong đích tôn Trịnh Bính làm Tấn Quốc công (sau phong là Tấn Quang vương), cho mở phủ Tiết Chế kiêm Tổng chính quyền, ủy cho Tả thị lang Nguyễn Viết Thứ và Nguyễn Hy Quang phụ tá việc nhiếp chính của Trịnh Bính.
Chính vị thế quan trọng này đã gây cho ông bao phức tạp, nhưng ông đã đem hết tâm sức làm tròn, khiến uy tín ngày càng tăng. Nghe chuyện bịa đặt dèm pha, ông cứng cỏi vững vàng không dao động. Ông thường lấy khuôn phép người xưa để tự mình gắng sức, vươn lên hơn người. Trong việc quan, ông không bao giờ nhận quà cáp riêng, không màng quyền uy, không màng giàu có, luôn thanh bạch, công minh chính trực
Ông Mai Thế Tế cho biết, Thành hoàng làng Nguyễn Hy Quang khi còn sống đã có đóng góp lớn đối với làng Trung Tự trong việc đòi lại đất bị quan lại lấn chiếm từ nhiều đời trước. Sau khi đỗ Giải Nguyên năm 1657, ông đã vận động đoàn kết các dòng họ trong làng, tìm cách đòi lại đất cũ.
Trải qua 3, 4 lần xét xử, đến năm 1674 sau khoảng 80 năm phải ở nhờ”, người dân Đông Tác – Trung Tự đã được trở về phục nghiệp trên mảnh đất cũ của tổ tiên. Trong năm này, ông bỏ tiền lương cùng dân làng Trung Tự sửa sang làng xóm. Biết đó là nơi nền đất yếu, Trịnh Bính cho quân dẫn theo đàn voi đến khu đất mà dậm nền nhà cho vững để trả ơn thầy.
Tháng 6/1691, thầy giáo Nguyễn Hy Quang được thăng làm Công khoa Đô cấp Sự trung, tước Hiển Phương bá, nhưng sau đó ông xin nghỉ hưu.
Tài cao bậc lương đống
Không chỉ là một thầy giáo, một vị quan rường cột triều đình, Thành hoàng làng Nguyễn Hy Quang còn là một người uyên thâm, lỗi lạc. Ông để lại nhiều trước tác cho hậu thế.
Chúa Trịnh qua nhiều lần đàm đạo tỏ ý hài lòng và có tặng thơ lại cho Nguyễn Hy Quang. Nhân đó, Hy Quang soạn dâng bản “Quân thần luận” chấn chỉnh kỷ cương đất nước và yên lòng dân.
Bản “Quân thần luận” nêu rõ các đạo lý về vua tôi, vấn đề dùng người: “Trị nước tuy có trăm đường, trị cương chẳng qua một sự. Dùng người mở lưới thu hết vào đã cho cơm gối cho áo, tùy tài đãi thấp cao đều xứng, cả làm cột bé làm rui”. Đặc biệt “Quân thần luận” cũng nêu ra hai vấn đề nóng hổi đương thời: Việc binh và việc hình cần phải thiết thực.
Nguồn sử liệu cho thấy, Nguyễn Hy Quang hay làm thơ chữ Nôm và có soạn sách. Ông để lại cho hậu thế cuốn “Quốc âm sự dẫn” được coi là của gia bảo dòng họ Nguyễn làng Trung Tự. Đặc biệt, bài thơ “Cảm tác” bằng chữ Nôm được sáng tác khi xây xong nhà ngay trước hồ Ba Mẫu ngày nay là một trong những áng thơ Nôm thể lục bát cổ xưa nhất còn lưu giữ lại được cho đến ngày nay, có niên đại rõ ràng (1674).
Năm 1692, Nguyễn Hy Quang lâm trọng bệnh. Cảm công ơn dạy dỗ của thầy, Tiết chế Trịnh Bính đã tận tình chăm sóc, đích thân xuống lập đàn và tự mình viết bài “mật đảo văn” mong thầy qua khỏi. Ông mất ngày 6 tháng 5 năm Nhâm Thân đời Lê Chính Hòa (1692). Chúa Trịnh thương xót lệnh nghỉ chầu 3 ngày, sai các quan trong bộ Lễ lo việc tang tế. Hiện, phần mộ của ông được đặt tại nghĩa trang Thanh Tước.
Trong văn tế thầy, Trịnh Bính viết: “Học tất phải có thầy, lễ trước tiên là trọng đạo. Thầy có tài kinh luận, truyền bảo cho trò. Trò nhờ dạy dỗ mà có kiến thức, vận dụng thực thi, làm lợi nước nhà. Tất cả hoàn toàn là nhờ ơn thầy. Nhớ thuở học xưa, nghe lời giảng sáng, được đọc sách hay, thương xót khôn cùng”.
50 năm sau khi qua đời, thầy giáo Nguyễn Hy Quang được nhà Lê gia phong làm Phúc thần Đại vương với lời đánh giá: “… tài cao bậc lương đống, vật báu như ngọc quý. Trong màn trướng đã bồi giảng nền học thánh hiền. Kịp thời đúng lúc và hết lòng phụ tá, góp nhiều ý hay vào mưu lược quốc gia”.
Dựa vào những sắc phong, sử liệu còn giữ được ở đình Trung Tự thì sau khi qua đời, Nguyễn Hy Quang được chúa Trịnh truy tặng hàm Thị Lang gia phong Thượng thư tước Hiển Quận công.
Đến năm 1745 niên hiệu Cảnh Hưng, ông được phong Trung đẳng Phúc thần, tặng phong mỹ tự. Sau này, Trịnh Khải ra lệnh sai quan đến tế theo lễ “Thiếu lao” cho dân hai phường Đông Tác và Kim Hoa là dân tạo lệ, được miễn phu dịch để trông nom đền miếu, hàng năm Xuân – Thu hai kỳ tế lễ.
Theo GD&ĐT
https://giaoducthoidai.vn/van-hoa/tu-thay-giao-tro-thanh-bac-su-than-nha-le-jvUmtcrng.html