Bị Phạm Phú Thứ phê bình nặng nề vì ham chơi không lo việc Triều chính, vua Tự Đức tức giận liền giáng ông đi làm lính khổ sai cắt cỏ ngựa. Tuy nhiên thái hậu Từ Dụ đã giúp Vua biết nhìn người, nhận lỗi về mình, không đánh mất vị quan biết lo cho dân chúng.
Phạm Phú Thứ thẳng thắn phê bình Vua, bị đi cắt cỏ ngựa
Năm 1842, Triều đình mở khoa thi, Phạm Phú Thứ 21 tuổi, qua 3 kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình đều đỗ đầu. Trải qua các chức vụ khác nhau, đến năm 1845 thì ông xin nghỉ về quê vì cha mất.
Đến năm 1849 dưới thời vua Tự Đức, ông được chuyển qua Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của Vua), rồi sang tòa Kinh diên (phòng giảng sách cho Vua).
Dù chỉ làm một chức quan nhỏ, nhưng nhận thấy Vua ham chơi, lơ là việc Triều chính, Phạm Phú Thứ dâng sớ thẳng thắn phê bình:
“Lễ đại đình ít thấy ra triều thị, nhạc nội uyển kèn trống suốt cả đêm, nhà Kinh Diên lâu không tới giảng, chốn triều đình lâu không ban hỏi, thần tử ở bốn phương phủ huyện cũng lâu không được thừa chỉ thanh vấn. Lại nói: Thái y phương thuốc điều hòa, thực cũng quá ư nghệ thuật, quần thần dâng sớ thỉnh an, vì tình khuất cả lời nói.”
(Đại Nam liệt truyện)
Vua Tự Đức năm ấy mới 21 tuổi, lên ngôi được 3 năm. Vua còn trẻ nên có tính ham chơi, đột nhiên thấy tờ sớ phê bình thẳng thì rất tức giận. Dù Triều thần xin tha cho Phạm Phú Thứ, Vua vẫn quyết định tước bỏ hết chức của Phạm Phú Thứ, bắt đi làm lính khổ sai cắt cỏ ngựa ở trạm Thừa Nông (phía nam Huế).
Trong khi nhiều bạn bè người thân lo cho số phận của ông thì Phạm Phú Thứ vẫn vui vẻ, lúc rảnh rỗi thì câu cá, ngắm cảnh làm thơ. Ông làm quen thêm với một số danh sĩ, làm tập thơ “Nông giang thi lục”. Ông có biệt danh là “Nông giang điếu đồ”, nghĩa là người câu cá trên sông Nông.
Thái hậu Từ Dụ khuyên vua Tự Đức
Mẹ của vua Tự Đức là bà Từ Dụ biết chuyện thì hỏi con rằng: “Ông Phạm dâng sớ khuyên con, ông ta được cái gì?”. Vua đáp: “Dạ! Ông ấy không được gì cả. Nhưng con thấy làm bề tôi mà trách Vua với lời lẽ nặng nề như thế là phạm thượng”.
Bà Từ Dụ hỏi tiếp rằng: “Thế từ khi bị giáng làm lính, ông ta có tỏ lời oán hận gì không?”
Vua đáp: “Con không nghe chuyện ấy. Nhưng biết rằng, ông ta mỗi chiều thường thả thuyền trên sông ngắm cảnh làm thơ ngâm vịnh”.
Bà Từ Dụ mới răn dạy rằng: “Thế người này đáng trọng lắm! Dâng sớ trách như vậy vì thương Vua, vì muốn Vua lo việc nước tốt hơn. Thương Vua, giúp Vua lại bị nạn mà không một lời than vãn, đành cam chịu thế càng tỏ trung thành. Đó là bậc trượng phu không vui ở chức tước được người trên trọng hay khinh mà vui ở việc làm chân chính. Con nên nghĩ lại!”
Vua Tự Đức nghe ra, năm 1852 cho gọi Phạm Phú Phứ về, khôi phục hàm Biên tu (tức chức vụ lúc mới ban đầu khi thi đỗ). Nhờ có lời chỉ dạy của người mẹ mà vua Tự Đức không bị mất một vị quan tài giỏi như Phạm Phú Thứ. Từ đó Vua cũng rất xem trọng ông.
Phạm Phú Thứ sau đó làm quan ở các nơi, ở đâu ông cũng chăm lo cho dân chúng, đồng thời có nhiều biểu tấu canh tân đất nước.
Phạm Phú Thứ giữ đúng phận bề tôi, Vua phải nhận lỗi
Năm 1866, Phạm Phú Thứ đang giữ Thự (quyền) Thượng thư bộ Hộ, nhận thấy cần rất nhiều khoản chi nhằm đảm bảo cho đời sống dân chúng, nhưng Vua vẫn giành cho mình khoản chi lớn để ăn chơi. Phạm Phú Thứ quyết định phải tấu trình lên Vua.
Rút kinh nghiệm lần trước, lần này ông mời thêm 3 vị đại thần có uy tín trong Triều cùng đứng tên làm bản tấu trình với mình, lời lẽ cũng rất nhẹ nhàng giữ đúng phận bề tôi tâu lên quân vương:
“Rất mong Hoàng Thượng cân nhắc việc làm, bỏ bớt hư phí, mà chú ý chấn chỉnh việc thực… Hiện nay việc đánh giặc đã xong, biên giới tạm yên nhưng dân còn ốm chưa tỉnh hết, giặc Tàu chưa sạch hết, giặc biển chưa yên hết, việc phải làm của các bộ còn nhiều, xin hoàng thượng xét định kỹ càng, gìn giữ cẩn thận, giảm bớt đi chơi, trước làm việc dễ, sau làm việc khó, tu sửa nơi gần rồi đến nơi xa…”
Lần này Phạm Phú Thứ dùng lời lẽ đúng phận bề tôi mà tâu, quả nhiên vua Tự Đức không tức giận như lần trước mà còn nhận lỗi, phê rằng:
“Các bậc đế vương tuyệt không vui chơi khó lắm, chỉ không dám bừa bãi mà thôi. Trẫm đức ít tài mọn chưa rõ mưu xa trị nước. Việc lỗi từ trước đã không lấy lại được, từ nay về sau vẫn muốn ít lỗi mà chưa được cho nên nhiều lần phê bảo đã thổ lộ hết, không giấu giếm gì, mà bụng nghĩ biết lỗi để sửa, chẳng lúc nào dám quên.” Đại Nam thực lục
Được Vua tin cậy
Từ lần được mẹ nhắc nhở, vua Tự Đức cho rằng Phạm Phú Thứ là người đáng tin cậy. Nhiều đề xuất cải cách của Phú Thứ đều được vua Tự Đức cho thực hiện như: Khai thác thủy nông sông Vĩnh Điện, tăng cường phòng thủ cảng Đà Nẵng, xây dựng cảng Hải Phòng.
Vua cũng bổ nhiệm ngay những người mà Phạm Phú Thứ tiến cử như: Lâm Hữu Chánh (chức Tri huyện Kim Thành), Nguyễn Dục (chức Tế tửu Quốc tử giám), Ông Ích Khiêm (chức Tiễu phủ sứ).
Tuy nhiên những đề xuất canh tân quan trọng mà Phạm Phú Thứ đưa ra nhằm bảo vệ đất nước trước người Pháp thì Vua không đồng ý thay đổi, như việc mở rộng buôn bán với phương Tây, dịch sách các nước phương Tây và tiếp thu khoa học kỹ thuật của họ… Điều này là do sự mâu thuẫn về cách tiếp cận với văn minh phương Tây trong chính Triều đình.
Vua cũng nhiều lần ban thưởng và đề thơ tặng cho Phạm Phú Thứ. Năm 1874, Phạm Phú Thứ được cử ra bắc làm Tổng đốc Hải Yên (Hải Phòng, Hải Dương và Quảng Yên) kiêm Tổng lý thương chánh Đại thần, vua Tự Đức có tặng bài thơ đề cao tài năng và đức độ của ông:
Lưu hầu trạng mạo cự khôi ngô,
Cấp ngọa Hoài dương bệnh bất cồ.
Tuyền dũng chư thương nhiêu quốc phú,
Băng tiêu quần đạo tỉnh quân nhu
Thanh vân tảo đạt ưu nhưng học,
Bạch tủ không đàm mạn tự nho.
Đông hải hùng phong như tán tích
Bản Tào trùng tán Quản Di Ngô.
Tạm dịch:
Trạng mạo nhà ngươi rất khôi ngô,
Cất nhắc người Hoài bệnh chửa lui
Suối mạnh nghề buôn gây quốc phú
Váng tan bọn giặc, đỡ quân nhu.
Đường mây sớm đạt nhưng còn học,
Tóc bạc bàn suông tự ngạo mình.
Gió mạnh Biển Đông công trạng tấn.
Hộ Tào lại nức tiếng Di Ngô.
Năm 1882, Phạm Phú Thứ mất, vua Tự Đức rất thương tiếc và có lời dụ rằng:
“Phú Thứ kinh lịch nhiều khó nhọc, đi đông sang tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối. Về việc tới trông coi Thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi công việc đều có manh mối, sau này nên lấy đó noi theo. Những lưu dân gian chỉ chứa ác ở Quảng Yên, ông tới kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là công cán ngày thường rực rỡ đáng nêu…”
Nguồn: https://phunuvietnam.vn/hoang-thai-hau-tu-du-day-con-nghiem-khac-ma-nhan-van-24457.htm