Trước khi qua đời, Gia Cát Lượng dặn dò hạ nhân, khi ông chết phải để miệng ông “ngậm 7 hạt gạo”, đồng thời không được lập tức cử hành tang lễ. Vì sao lại như vậy?
Trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, Gia Cát Lượng là người có khả năng tiên tri, ông trên thông thiên văn dưới rành địa lý, vừa có thể bài binh bố trận mà lại mưu tính sâu xa. Chỉ tiếc rằng trên đường Bắc phạt vất vả lâu ngày, ông bị ốm nặng, và qua đời tại Gò Ngũ Trượng của nước Thục vào năm Kiến Hưng thứ 12 (năm 234).
Một người am hiểu huyền học như Gia Cát Lượng đã sớm tính được rằng vận hạn của mình đang đến gần, chỉ hận chưa hoàn thành nguyện vọng phục hưng Hán thất. Bởi vậy, ông lập đàn “thất tinh đăng” dâng sao giải hạn mong kéo dài tính mệnh, nhưng vì một sự cố ngoài ý muốn mà bất thành. Trước khi qua đời, Gia Cát Lượng dặn dò hạ nhân, khi ông chết phải để miệng ông “ngậm 7 hạt gạo”, đồng thời không được lập tức cử hành tang lễ.
Gia Cát Lượng làm như thế thật ra là vì đại cục nhà Thục Hán, điều này cũng thể hiện tinh thần cao thượng một lòng vì nước của ông!
Ngậm 7 hạt gạo sau khi chết
Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, có hai chuyện khiến ông quan tâm nhất. Một là nên giữ người nào lại cho Lưu Thiền trọng dụng, trợ giúp ổn định Thục Hán; Hai là lui binh như thế nào cho an toàn. Gia Cát Lượng biết rõ tài năng của Tư Mã Ý, biết rằng Tư Mã Ý cũng có thể nhìn thiên tượng biết Tướng tinh sắp rơi, và sau khi ông chết Tư Mã Ý ắt sẽ phản công.
Theo nhìn nhận của Gia Cát Lượng, quân Thục Hán không ai có thể ngăn trở Tư Mã Ý, ngay cả Ngụy Diên cũng không được, cho nên ông nhất định phải sắp xếp tốt kế hoạch rút quân trước khi chết.
Trước khi qua đời, Gia Cát Lượng viết tờ di biểu dâng lên hậu chủ, xong xuôi lại dặn dò Dương Nghi rằng:
“Sau khi ta chết, không nên phát tang, nên làm một cái khám to, để thây ta ngồi trong khám, lấy bảy hạt gạo bỏ vào miệng, dưới chân đặt một ngọn đèn sáng. Trong quân cứ giữ vẻ yên ổn như thường, chớ có khóc lóc; như thế, ngôi tướng tinh không rơi xuống, âm hồn ta tự khắc cũng nhấc lên được. Tư Mã Ý thấy tướng tinh không sa, trong bụng còn hồ nghi. Quân ta rút về nên để trại sau rút trước, rồi lần lượt trại nọ đến trại kia, từ từ mà lui. Nếu Tư Mã Ý đuổi theo, ngươi nên dàn thành trận thế, quay cờ đánh trống trở lại, rồi đem bộ tượng gỗ của ta khi trước, đặt lên trên xe đẩy ra trước trận, sai tướng sĩ đứng dàn hai bên. Tư Mã Ý trông thấy, tất phải sợ mà chạy”.
“Tam Quốc Diễn Nghĩa” hồi 104, kể rằng :
Đêm hôm ấy trời đất sầu thảm, Khổng Minh thiêm thiếp về thần. Khương Duy, Dương Nghi tuân lời di chúc, không dám cử ai theo khâm liệm, an trí vào trong khám, sai ba trăm tướng tốt tâm phúc coi giữ. Đoạn bí mật truyền lệnh sai Ngụy Diên đi đoạn hậu, còn các trại đều nhổ dần kéo về.
Tư Mã Ý đêm hôm ấy xem thiên văn, thấy một ngôi sao to, sắc đỏ tía, ánh tỏa ra như có sừng, từ phương đông bắc bay sang phương nam, rồi sao xuống trại Thục. Ba lần sa xuống, lại ba lần vụt lên, tiếng chuyển ầm ầm.
Ý nửa sợ nửa mừng nói:
– Khổng Minh chết rồi!
Lập tức truyền lệnh cất đại quân ra đuổi đánh. Vừa ra cửa trại, lại nghĩ rằng:
– Khổng Minh tài phù phép, sai khiến thần Lục đinh, Lục giáp. Nay thấy ta không ra đánh, cho nên làm ra thuật này để dử ra đây; nếu ta đuổi theo, tất lại mắc mẹo.
Nghĩ thế rồi quay ngựa trở vào, không đi nữa, chỉ sai Hạ Hầu Bá dẫn vài mươi tên kỵ, lẻn ra đường núi, nghe ngóng tin tức mà thôi.
Nói về Hạ Hầu Bá dẫn quân đến gò Ngũ Trương, nghe ngóng tin tức, thì không thấy một người nào nữa, kíp về báo với Tư Mã Ý. Nhận được tin báo quân Thục đều đã rút binh, Tư Mã Ý vội vàng giẫm chân hạ lệnh truy kích: “Khổng Minh chết thật rồi, nên đuổi đánh cho mau”.
Tuy nhiên khi quân Tư Mã ý đuổi đánh, quân Thục làm theo lời dặn dò của Khổng Minh, đẩy xe có tượng gỗ ra trận, dọa cho quân Ngụy hồn bay phách tán, nhao nhao vứt bỏ giáp dắt binh tháo chạy. Tư Mã Ý cũng sợ hãi bỏ chạy hơn năm mươi dặm mới bàng hoàng hỏi thủ hạ của mình: “Đầu của ta còn không?”.
Trận chiến này, về sau trong dân gian lưu truyền câu nói: “Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt” (Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống). Người đời sau còn làm thơ rằng:
Sao dài sa xuống, biết hay không?
Ngơ ngẩn còn mang dạ hãi hùng!
Để một trò cười ghi miệng thế,
Sờ đầu chẳng biết có còn không?
Vì sao Gia Cát tiên sinh lại hạ lệnh ngậm 7 hạt gạo sau khi chết?
Gia Cát Lượng sở dĩ bảo Dương Nghi lấy bảy hạt gạo bỏ vào miệng ông, là bởi vì Gia Cát tiên sinh am hiểu pháp thuật Lục Đinh, Lục Giáp. Ông sử dụng pháp thuật này để âm hồn của mình tái hiện, có thể trấn trụ thân thể, khiến thiên tượng cho rằng ông còn chưa chết, như vậy thì Tướng tinh trên trời tạm thời vẫn chưa rơi. Trong sách Khổng Minh đã giải thích: “như thế, ngôi tướng tinh không rơi xuống, âm hồn ta tự khắc cũng nhấc lên được“.
Mặt khác, Gia Cát Lượng biết rõ Tư Mã Ý đa nghi, sẽ không đánh một trận khi còn chưa chắc chắn. Tư Mã Ý tuy biết Gia Cát Lượng không còn sống lâu nữa, nhưng chỉ cần ông vẫn đang còn sống thì sẽ không dám hành động thiếu suy nghĩ, như vậy quân Thục sẽ có đủ thời gian để rút lui.
Sau này vào cuối thời nhà Đường có một văn nhân tên là Trần Cái đã viết lời chú cho bài “Ngũ Trượng Nguyên Thi” của Hồ Tằng, trong đó giải thích rằng: Gia Cát Lượng dặn dò “túc hạ đạp thổ” (dưới chân chạm đất), “kính yên tâm tiền” (gương đặt trước tim), trong miệng ngậm bảy hạt gạo và một lượng nước thích hợp, biểu thị vẫn còn có thể ăn uống như người đang sống, trong tay cầm bút và binh thư, lại có ngọn đèn sáng ở trước đầu, biểu thị vẫn đang hoạch định quân mưu.
Trong thực tế, nghi thức này đã có từ lâu đời. Tập tục để một số đồ vật trong miệng người đã khuất rồi an táng, thời cổ đại gọi là “ngậm”, “ngậm ngọc”, “ngậm cơm”… Những thứ mà người chết thường ngậm là ngọc, gạo, ngũ cốc. Nếu ngậm các loại lương thực nói chung thì đều được gọi là “ngậm gạo”, nếu ngậm châu báu ngọc ngà thì đều gọi là “ngậm ngọc”.
Trong “Công Dương Truyện” ghi chép: Hiếu tử không nỡ để cha mẹ trong miệng vẫn trống rỗng khi qua đời, cho nên mới đặt một số thứ như gạo, cơm, ngọc, châu báu… vào miệng của họ.
Đối với tập tục này, trong “Bạch Hổ Thông – Băng Hoàng” cũng nói thêm: Vì sao phải ngậm gạo? Đó là vì khi sống phải ăn uống, cho nên khi chết đi trong miệng không thể trống không, vì vậy cần ngậm đồ. Vậy tập tục này được thực hiện như thế nào? Thiên Tử ngậm ngọc, chư hầu ngậm châu, đại phu ngậm gạo, văn sĩ ngậm bối.
Gia Cát Lượng không phải là chư hầu, chức vị Thừa Tướng của ông được xem như một cấp của đại phu, cho nên ngậm gạo là phù hợp với thân phận ấy. Ngậm gạo ở đây không liên quan gì đến hiếu tử, mà có lẽ giống như Trần Cái nói, điều này biểu thị ông dù đã chết nhưng vẫn có đầy đủ quyền năng giống như khi còn sống.
Nhưng tại sao nhất định phải là bảy hạt gạo? Bởi vì trong tập tục mai táng của người phương Đông, số “bảy” là con số thần bí, hàm chứa một ý nghĩa văn hóa sâu xa. Ví dụ Rằm tháng Bảy Âm lịch là Tết Trung Nguyên, cũng gọi là “tiết quỷ”, là ngày mà bách quỷ dạo đêm. Vào ngày này, người xưa có tập tục đốt nến cúng nhan ở hai bên đường.
Ngoài ra, những người đã khuất sau bảy ngày qua đời cần phải làm “Thất Đầu”, bởi vì tương truyền sau khi chết bảy ngày thì linh hồn sẽ trở về nhà, do đó người nhà cần phải chuẩn bị cơm canh nghênh đón. Sau đó cách 7 ngày lại làm pháp sự, qua bảy bảy bốn mươi chín ngày mới có thể siêu độ vong linh cho người đã khuất. Vì vậy “ngậm bảy hạt gạo” cũng chính là mượn dùng thâm ý của con số “bảy” thần bí trong văn hóa Đông phương, cũng là một ngụ ý cao thâm khôn lường của Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng cả đời vì nước, “cúc cung tận tụy đến chết mới thôi”. Đến lúc cận kề cái chết, ông vẫn canh cánh nỗi lo nghĩ làm thế nào để trợ giúp đất nước của mình. Tấm lòng cao thượng này đáng để hậu nhân kính nể từ đáy lòng, cũng lưu lại bao nỗi niềm thương tiếc!
Nguồn: Sound Of Hope (Lý Tịnh Nhu) – NTD (Trung Nguyên)