Hôm nay 22/2/2022 đúng 100 năm sinh nhà thơ Hoàng Cầm. Bài viết này của tôi đã đọc tại cuộc tưởng niệm một năm mất của ông do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức 2011 và vừa in lại trong sách “Hoàng Cầm – Về Kinh Bắc” ra dịp này. Và hôm nay một nhóm văn nghệ sĩ chúng tôi sẽ có cuộc đi dọc sông Đuống và về Thuận Thành quê ông nghe hát quan họ để mừng ông trăm tuổi trong cõi thơ.
Không ai trên đời sống mãi
Tất cả đều qua đi
Riêng đôi mắt còn lại
Mấy câu thơ mở đầu bài “Mắt thời gian” Hoàng Cầm viết năm 1979. Tháng năm đó còn là khoảng thời gian khó cực của ông và những bạn hữu cùng cảnh như ông. Ông chưa hay một khổ nạn nữa sẽ vẫn bất ngờ ập xuống đầu ông, mấy năm sau đó. Và phải mấy năm nữa sau nạn đó, ông và các bạn ông, mới được lộ sáng để phát sáng những ánh hồi quang của luồng sáng đã có trước khi chìm trong âm thầm bóng tối im lặng nhiều năm dài.
Mắt thời gian em ơi nhìn đâu
để chiều nay tơ trắng ngang đầu
Để chiều mai đương xuân
Ai òa mưa mau
Thơ Hoàng Cầm viết trong ánh nhìn của “mắt thời gian”. Con mắt thơ của ông nhìn xuyên thời gian, xuyên các tầng các lớp văn hóa của một miền quê quan họ, của một vùng đất thấm đẫm những huyền sử huyền tích huyền tình. Quê hương đã sinh ra nhà thơ và nhà thơ đã sinh lại quê hương bằng những câu chữ buông bắt, đung đưa, luyến láy, bằng những vần thơ thiết tha, nồng nàn, buồn dài vui ngắn, nhiều thương lắm nhớ. Trên hết, có một mạch nguồn cảm xúc tâm tư dạt dào, lai láng, không bao giờ vơi cạn chảy từ lòng đất lòng người Kinh Bắc tưới nhuần thơ Hoàng Cầm. Và đến lượt thơ ông lại khơi mạnh hơn, nhiều hơn nguồn mạch ấy cho người đọc được ngập mình trong một dòng chảy văn hóa lung linh, biến ảo. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” nổi tiếng chính ở sự làm bùng lên được nỗi xót thương, căm phẫn trước cái đẹp văn hóa truyền thống ngàn đời của một vùng quê Bắc Bộ bị kẻ thù tàn phá. Tội ác lớn nhất của kẻ thù là hủy diệt văn hóa của một dân tộc. “Mẹ con đàn lợn âm dương / Chia lìa đôi ngả / Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã / Bây giờ tan tác về đâu”.
Mắt thời gian của Hoàng Cầm hướng về Người Nữ với chữ viết hoa từ ngàn xưa đến ngàn sau trong tâm thức tình cảm thi nhân là nguồn sự sống, nguồn tình yêu. “Tôi theo dòng mẫu hệ / Cứ mê man lạc đường”. Thi nhân đi theo tiếng gọi của tình nhân. “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng”, thơ Hoàng Cầm ở trong cõi ấy. Cõi tình yêu, cõi người nữ, cõi tính nữ. Người Nữ trước hết là Mẹ để khi lâm hoạn nạn “cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc” là con trở về mẹ, trở về quê hương bản quán, trở về cội nguồn văn hóa bền vững ngàn đời, cho con lấy lại niềm tin yêu, lòng quyết sống, “chỉ còn ta đạp lùi tinh tú”.
Người Nữ là Chị trong một mối tình tuyệt vọng, xót xa, đau đớn, nhưng là một mối tình thiên niên vạn đại, “em đừng lớn nữa chị đừng đi”, tạo nên một cặp đôi bất ngờ, mới mẻ, trái khoáy, đa chiều của thơ Việt thế kỷ XX. Cặp đôi Chị – Em mang dấu ấn bản quyền bản sắc Hoàng Cầm. Mẹ là cái đã kết tinh, lắng đọng, là niềm an ủi, vỗ về. Chị là sự theo đuổi, mê đắm, tỉnh thức, nghi ngờ, dằn vặt, hoang mang, níu kéo. Đó là cái Đẹp, còn hơn cả cái Đẹp. Đó là cái Đau, còn hơn cả cái Đau. Chị, như vậy, là một chấn thương tình cảm và là một vết thương tinh thần của Hoàng Cầm, của nhà thơ. Chiếc lá Diêu Bông không có thực nhưng là có thật trong thơ Hoàng Cầm và từ thơ ông lá ấy che mặt người cho bao người, điều đó là có thực.
Người Nữ là Em người tình, người yêu, người vợ. “Cánh lá buồn riêng em / anh ngậm / Lá ly thân em / Lá ly tâm em / lá bất ly đời em đã trao anh cầm”. Cho người nữ là em này, thi nhân có rất nhiều tình cảm, nhiều buồn vui, nhiều tiếc nuối. Trong đời, Hoàng Cầm là người thơ đa tình, dễ rung động, có những cuộc yêu đột ngột, những gắn kết bất ngờ. Thơ ông chứng thực cho tình ông, và còn hơn thế, cho ông sống được nhiều thêm dồi dào thêm đa dạng thêm các cung bậc yêu và tình yêu. Bởi xét cho cùng, ông cũng như bao kiếp tình nhân trên đời, “ta cũng nòi tình thương người đồng điệu”, yêu bao nhiêu cũng không đủ, yêu đến mấy cũng không thỏa, và luôn là cô đơn, ngay cả khi hai người, ngay cả trong hạnh phúc. “Lắm loài súng sính sinh đôi / Nòi tình thua suốt cả đời MỘT KHÔNG”.
Hoàng Cầm đời và thơ trọn một kiếp người chín phần mười thế kỷ làm một chứng nhân và một nạn nhân của lịch sử đã nhìn và được nhìn bằng “mắt thời gian càng miên man xanh”. Ông, và bạn bè hoạn nạn của ông, không né tránh cái sự bị nhìn tưởng có thể găm chết họ dưới một nhãn quan khác. Bởi ông có mắt thời gian để nhìn theo cách của mình. Thơ ông đã nhìn xuyên thời gian. Và thời gian lại có con mắt để nhìn lại ông và thơ ông, cũng xuyên thời gian, để thấy ra những phù phiếm, nhất thời và những đích thực, lâu dài.
Riêng đôi mắt còn lại.
Đôi mắt Hoàng Cầm, mắt thơ Hoàng Cầm còn lại nhìn ta cho ta thấy gì nữa từ thơ ông? Ngày ông mất năm ngoái (6.5.2010) tôi đang lênh đênh trên biển Đông đi thăm quần đảo Trường Sa, mãi hơn một tuần sau khi về gần bờ có sóng điện thoại tôi mới được biết tin. Ai ra Trường Sa đều thấm thía cụ thể lòng yêu nước là yêu từng mảnh đất của đất nước, dẫu nhỏ nhoi xa vời giữa trùng khơi, là yêu những người dân sống bình dị khó khăn thường ngày, nhưng họ sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình cho sự vẹn toàn lãnh thổ quốc gia. “Dân là dân nước, nước là nước dân” (Phan Bội Châu). Thơ Hoàng Cầm vẻ như rất ít tính thời sự, ít cập nhật các vấn đề xã hội. Tìm ở thơ ông một tiếng nói chia sẻ những vấn đề thời cuộc đương thời là khó vì đó không phải là hướng thơ ông chọn. Ở chỗ này ông rất khác với Phùng Quán, và khác với cả Lê Đạt ở thời kỳ đầu. Có lẽ do bị lâm hoàn cảnh trong một thời gian dài nên ông tránh hiện tại mà tìm về quá khứ, hay nói cách khác ông tìm cách “hiện tại hóa quá khứ” và “quá khứ hóa hiện tại”. Nhưng đọc kịch thơ Kiều Loan ông viết năm 1942 tôi tìm được cho mình một Hoàng Cầm khác, quyết liệt và dũng cảm, với những câu thơ đồng vọng tâm trạng tôi khi từ Trường Sa trở về.
Cái bền lâu là dân nước đó thôi
Đế bá công hầu ngựa xe rầm rập
Lúc đi ngược lòng dân là chết rấp
Làm lợi cho dân thì hương khói phụng thờ
Làm mất nhân tâm thì miếu lớn tượng to
Dân đạp gí xuống bùn là hết chuyện
Tôi đã tưởng niệm muộn cái chết của nhà thơ Hoàng Cầm bằng cách đọc lại thơ ông, trong đó có đoạn thơ trên.
Kịch thơ “Kiều Loan” công diễn lần đầu năm 1946 tại Nhà Hát lớn Hà Nội, và mãi hơn sáu mươi năm sau (2005) nó mới lại được lên sàn diễn ở Nhà hát Tuổi Trẻ trong niềm vui sướng vô cùng của Hoàng Cầm và bao độc giả, khán giả. Trong khoảng thời gian giữa hai lần diễn, người viết lên những câu thơ mạnh mẽ trên đã có lúc ngã lòng suy sụp đến mức chán nản, không thiết làm thơ đọc thơ nữa. Chứng kiến cảnh này, nhà thơ Phùng Quán, người bạn, người em ít tuổi nhất trong “bộ tứ Nhân Văn”, đã ứng tác một bài thơ và dùng than viết lên một mảnh bao xi măng ngay trong căn bếp nhà Hoàng Cầm. Thơ rằng:
“Viết tặng thi sĩ Hoàng Cầm trong giây phút anh ngã lòng suy sụp”
Tôi tin núi tàn
Tôi tin sông lấp
Nhưng không thể nào tin
Một nhà thơ như anh
Lại ngã lòng suy sụp
Anh, nhà thơ đã viết
Cách đây ba mươi năm
Những vần thơ lẫm liệt:
“Tiểu đội anh những ai còn ai mất?
Không ai còn ai mất
Chỉ chết cả mà thôi!
Người sau kẻ trước lao vào giặc
Giữ vững ngàn thu một giống nòi…”
Thế gian có nghìn sông
Và một nghìn nhà thơ lớn
Nhưng chỉ có một dòng
May được thơ xưng tụng
Nhờ thơ mà vang vọng
Nhờ thơ mà vinh danh
Đó là con sông Đuống
Con sông của quê anh
Anh xót xa như bàn tay anh rụng!
Tôi có một niềm tin
Chắc như đanh đóng cột
Ngày mai anh nhắm mắt
Đi sau linh cữu anh
Ngoài bạn hữu gia đình
Có cả con sông Đuống!
Sông Đuống mặc đại tang
Khóc bên bồi bên lở
Sóng vỗ bờ nức nở
Ngàn đời chịu tang anh…
Tôi tin núi tàn
Tôi tin sông lấp
Nhưng không thể nào tin
Một nhà thơ như anh
Lại ngã lòng suy sụp!
Có lẽ, Hoàng Cầm đã được tiếp thêm niềm tin và nghị lực để biết vịn câu thơ mà đứng dậy những lúc ngã lòng nhờ các bạn thơ, người yêu thơ luôn ở bên ông và thơ ông như vậy. Ông và các bạn đã sống cho đất nước, dân tộc bằng thơ. Thơ đã là bản lý lịch tâm hồn của các ông chứng thực với nhân dân. Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007 trao cho Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt và Phùng Quán chứng thực cho một định luật nhân văn : những bản thảo không cháy!
Hà Nội 2011
Phạm Xuân Nguyên