Được Long thần tặng bè gỗ quý để cảm ơn vì cho tá túc nhờ, bà Sáu liền đem tặng cho sư thầy để cất một mái chùa nhỏ che nắng che mưa. Sau đó, sư thầy xây dựng một ngôi chùa lấy tên Thiên Lộc tự.
Ở thôn An Ninh (xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) có một ngôi chùa cổ mang tên Thiên Lộc tự. Chùa được xây dựng trên một vị trí khá đẹp, mặt chùa hướng phía Nam, nhìn về dãy núi Chín Khúc (còn gọi là núi Hoàng Ngưu). Bên cạnh chùa là dòng sông chỉ có nước vào mùa mưa lũ nên gọi là sông Cạn.
Ngay lối ra vào chùa là cổng tam quan gồm 3 ngõ. Bên trong là gian chính điện được bày trí theo kiểu tiền phật, hậu thánh. Tức là ở chính giữa điện thờ Phật, bên hữu thờ Quan Thánh (tức Quan Vân Trường thời Tam Quốc) và bên trái thờ Nữ thần Thiên Y A Na.
Theo một sư thầy tại chùa, vì đây là ngôi chùa cổ nên cho đến nay vẫn chưa xác định được năm khai lập và tổ sư của chùa là ai. Tuy nhiên, xét về gốc tích thì các vị trụ trì những đời trước cho rằng chùa được xây dựng khoảng vào triều đại Cảnh Hưng (1740 – 1786).
Hiện ở chùa còn một chiếc đại hồng chung cổ và một bảo chung, trên hồng chung có khắc chữ “Thiên Lộc Thiền Tôn tự”, còn trên chiếc bảo chung có khắc niên đại “Đinh Sửu niên Nhị nguyệt Nhị Thập nhật (tức ngày 20 tháng 2), chỉ ghi ngày tháng chứ không ghi triều đại nào nên rất khó đoán biết được chùa xây dựng chính xác vào năm nào. Tuy nhiên, trong chùa có một dòng đề ghi chùa Thiên Lộc được trùng tu vào năm Tự Đức thứ 9 (năm 1856).
Theo người dân địa phương, du khách đến viếng chùa mà chưa nghe qua câu chuyện về sự tích bà Sáu góp gỗ xây chùa thì chưa trọn vẹn. Truyền thuyết kể lại, thuở xưa ở thôn An Ninh có một người phụ nữ, tục gọi là bà Sáu, không chồng không con, làm nghề nuôi tằm lấy tơ. Một đêm mùa thu trăng thanh gió mát, có 4 người đàn ông ở xa ghé qua nhà để xin ngủ nhờ, ngày mai tiếp tục lên đường.
Thương tình khách xa, bà Sáu đón tiếp một cách nồng hậu nhưng ngặt nỗi vì nhà quá nghèo nên không có chăn chiếu để khách được ngủ yên giấc. Những vị khách này hỏi bà mượn 4 chiếc nong để đem ra ngoài sân trải nằm.
Lúc gà gáy canh đầu tờ mờ sáng, bà Sáu trở mình dậy ra sân múc nước để chuẩn bị cho sinh hoạt ngày mai thì thấy trong mỗi chiếc nong là một con rắn khổng lồ, thân to bằng cây cột đình đang nằm cuộn tròn, đầu nhô lên cao. Vảy rắn lấp lánh ánh bạc dưới ánh trăng đêm thu mờ ảo như cảnh ma quái. Thấy cảnh tượng đó, bà Sáu chỉ kịp thét lên một tiếng lớn rồi ngã lăn ra bất tỉnh.
Lúc tỉnh dậy, bà Sáu thấy 4 vị khách xin ngủ nhờ hôm qua ngồi quanh giường, không còn những con rắn khổng lồ kia nữa. Một người cất tiếng nói: “Bà đừng sợ hãi, chúng tôi là những Long thần ở thủy cung đi ngang qua nên ghé ngủ nhờ chứ không có điều ác ý. Vâng lệnh Long Vương đi lấy củi nhưng đường về xa xôi mà trời lại tối nên chỉ ngủ nhờ một đêm rồi nay lại lên đường. Công ơn chiếu cố của bà chúng tôi sẽ không bao giờ quên”. Nói xong, 4 người đàn ông từ giã bà Sáu rồi biến mất.
Qua tháng sau, mưa dữ dội như trút nước suốt hai ngày hai đêm, sông ngoài nước dâng cao ngập cả ruộng nương của dân làng. Những nhà ở dưới thấp đều bị nước lớn xô đổ hoặc bị cuốn trôi theo dòng nước cuồn cuộn.
Nhà bà Sáu tuy ở trên dốc núi nhưng nước cũng vào đến sân. Đêm đến, bà Sáu không an tâm nên ngồi ở bậc hiên nhà để cầm đèn đo con nước. Lúc này, 4 người đàn ông xin ngủ nhờ tháng trước lại xuất hiện trước mặt bà, một người cất giọng nói: “Chúng tôi chở gỗ về Thủy Phủ, qua đây ghé sang thăm bà. Bà chớ lo sợ, nước sẽ rút trong đêm nay”.
Nói đoạn rồi 4 người lại biến mất sau lời từ biệt như lần trước. Sau đó, nước bỗng rút dần và đến sáng ngày hôm sau thì đã cạn sạch. Liền đó là một trận mưa nhẹ để gội rửa những bùn lầy dính trên cây lá, trời lại trong xanh như trước.
Sau khi nước rút, ở trước bậc thềm cửa nhà bà Sáu bỗng xuất hiện một bè gỗ quý được xếp ngăn nắp và không hề dính một tí bùn nào. Biết là của Long thần tặng để cảm ơn bà cho tá túc nhờ nhưng vì không có con cái nên không biết sẽ dùng số gỗ để làm gì cho xứng đáng. Lúc này, bên cạnh nhà có một sư thầy lập am miếu nhỏ để thiền tu và giáo hóa bổn đạo, bà Sáu liền đem bè gỗ quý ấy sang tặng cho sư thầy để cất một mái chùa nhỏ che nắng che mưa. Sau đó, sư thầy xây dựng một ngôi chùa lấy tên Thiên Lộc tự.
Sau khi chùa được dựng, bà Sáu xin một mẫu đất để lập miếu thờ 4 vị Long thần đã gặp và trao tặng gỗ quý để xây chùa. Tương truyền rằng, lúc đó nhà bà Sáu không rộng nên xin chùa được cất một ngôi miếu ở trong khuôn viên chùa. Sư thầy đồng ý, ngôi miếu được cất lên và thờ phụng cho đến nay.
Sau khi bà Sáu qua đời, người dân địa phương tưởng nhớ nên cũng lập một miếu thờ, gọi là miếu bà Sáu. Trải qua thời gian cùng với những biến cố của lịch sử, chùa và miếu đã được sửa sang lại nhiều lần nhưng vẫn còn những nét cổ kính như thuở sơ khai.
Theo Hoa đất Việt