Thấy dân vạn chài không một tấc đất cắm dùi, lênh đênh gian khó, người dân ở Xuân Mỵ thương tình đã nhượng lại 2 mẫu đất giữa làng cho bà con ngư dân phơi lưới, lâu dần thành đất sinh cư tử táng
Nằm bên cạnh làng Mai Xá Chánh (xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị) vang tiếng gần xa, hương thôn Mai Xá Thị ở phía Bắc biển Cửa Việt có vẻ khiêm nhường cố hữu khi quay mặt nhìn ra đại dương.
Ngã ba sông, đoạn cuối sông Cánh Hòm đổ ra sông Hiền Lương
Hợp lưu của 3 con sông
Đây chính là nơi hợp lưu của 3 con sông ở Quảng Trị là Thạch Hãn, Cánh Hòm và sông Hiếu.
Cánh Hòm đặc biệt khác với những con sông còn lại ở tỉnh Quảng Trị. Sông tự nhiên thì có Hiền Lương, Hiếu Giang, Thạch Hãn, Ô Lâu…; sông đào thì có Vĩnh Định được trang trọng khắc trên vạc đồng ở kinh thành Huế. Chỉ có sông Cánh Hòm một nửa trời sinh, một nửa người đào mà thành nhưng nhân tạo lớn hơn thiên phú.
Sông Cánh Hòm chảy qua làng Bách Lộc ở Gio Linh, Quảng Trị
Chuyện khai sơn phá thạch, dời non lấp bể khi xưa là đại sự trong thiên hạ, ít ra cũng là việc trọng của một vương triều. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1651), sông này đã được khai thông ít nhiều nhưng phải đợi đến triều vua Minh Mạng thì việc lớn mới thành.
Khi ấy, triều đình mở một con đường thủy từ kinh sư theo Vĩnh Định ra đến Cửa Việt theo dòng Cánh Hòm gặp sông Bến Hải, thậm chí còn ra tận Quảng Bình cũng vẫn theo con nước, để bậc đế vương tuần du, thăm thú rồi nghỉ lại Cửa Tùng – nơi người Pháp “nịnh đầm” có lý khi xướng danh “Nữ hoàng của các bãi tắm”.
Đầu thế kỷ XX, vua Duy Tân có lần ra Cửa Tùng, tiếng là đi chơi để che mắt Pháp nhưng kỳ thực là tìm gặp những nhân sĩ yêu nước, như cụ Khóa Bảo Nguyễn Hữu Đồng ở Cam Lộ (Quảng Trị), nhằm mật bàn quốc sự khởi nghĩa chống quân xâm lược.
Việc lớn bất thành, cả vua lẫn tôi đều bị giặc Pháp giam vào ngục thất. Dấu tích vua chúa ngày xưa nay đã nhạt nhòa nhưng thú vị là vẫn còn một địa danh đọc lên nghe rất Huế, vì gắn liền với quân vương. Ấy là cầu Bến Ngự thuộc xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh, bắc qua sông Cánh Hòm, chảy suốt thời gian quanh co, chở đầy ký ức.
Mơ về thời cổ tích
Hôm tôi về Mai Xá Thị nhằm ngày rằm, tận mắt chứng kiến nhiều sự lạ. Dân làng chỉ cho tôi ngô đồng cổ thụ như trong thơ Bích Khê có mặt từ thời vua Tự Đức.
Thời chiến tranh, mảnh bom đạn giắt đầy thân cây ngô đồng, tưởng đâu không qua khỏi nhưng thật không ngờ, nó vẫn sống xanh tươi cho đến nay. Vào trong đình, tôi lại thấy thờ cả danh thần Trần Đình Ân – vốn là cụ Thượng làng Hà Thượng của xã Gio Châu.
Hỏi ra mới biết, xưa Mai Xá Thị dính vào một vụ đáo tụng đình đất đai oái oăm, may nhờ đại thần Trần Đình Ân thương dân nên tạo phúc, giúp cho làng này thắng kiện, tìm được lẽ phải. Sau khi cụ Trần Đình Ân qua đời, bài vị của vị đại quan từ đó được nơi đây phụng thờ hương khói.
Thế mới biết đất đai muôn đời vẫn là máu thịt của nông dân, người làm quan lại càng nên hiểu đạo lý này mà hành xử công minh. Ai có công thì người dân nhớ mãi.
Người dân Mai Xá Thị trước đình làng
Theo chân ông Bùi Đức Phúc, một người trong ban điều hành làng, tôi ra giếng cổ. Ông Phúc chỉ tay, nói chắc nịch: “Đây là giếng mà đời xưa ông cha bảo rằng ban đêm tiên xuống tắm. Có vậy nước giếng mới trong trẻo, ngọt lành”.
Tôi cứ đứng ngẩn ngơ, mơ về thời cổ tích, người sống chung với tiên, với bụt. Giá như có được một lần…
Tôi lần theo con nước qua Lâm Xuân, xưa là làng chiếu nổi danh Quảng Trị, quê của Nguyễn Tiến Đạt – một nhà báo, nhà thơ rất đáng trân trọng. Anh đã thành người thiên cổ gần 20 năm nay. Chàng Nguyễn này tuy không bán chiếu mà cũng đa tình, có 2 câu thơ làm tôi nhớ mãi: “Ơi người tóc bạc cùng tôi/ Lại đây ta nói những lời bướm ong”.
Làng Lâm Xuân không còn dệt chiếu đã lâu, tôi đến để gặp một lão nông tri điền yêu đất đai đúng nghĩa như là máu thịt đời mình. Đó là ông Trần Xuân Thắng, tuổi ngoại bát tuần nhưng dáng vẻ vẫn vững chãi, gương mặt tinh anh.
Nhà ông Thắng cứ như một bảo tàng nhỏ về nông cụ. Những vật dụng này thân thiết với nhà nông như miếng cơm, manh áo hằng ngày. Tôi vốn không lạ gì những nông cụ này nhưng nghe ông Thắng giảng giải từ cày đến bừa, từ cuốc chĩa đến cuốc bàn, từ trang đến nát… thì lòng không khỏi khâm phục một hiện thân nhân văn và sinh động của văn minh lúa nước, sống dọc sông Cánh Hòm.
Không nguôi nhớ về quê cũ
Rong ruổi suốt mấy ngày trời, rồi tôi cũng gặp con nuôi thành con đẻ của sông Cánh Hòm ở đoạn cuối con nước. Đó là làng chài Bách Lộc, thuộc xã Trung Hải, huyện Gio Linh. Làng được hình thành vào thế kỷ XVIII.
Dân chài làng Bách Lộc đánh bắt thủy sản trên sông Cánh Hòm
Theo lời kể của ông Lê Viết Trinh – một người hiểu biết rất sâu về vùng đất này, quá vãng đã xa lại về trong phút chốc. Thời ấy, vào năm Thiệu Trị thứ bảy (1847), ông tiền khai khẩn Trần Hiếu đã tập hợp dân chài từ phá Tam Giang của xứ Huế đến Bến Quan (Vĩnh Linh), quyết tạo dựng cuộc sống lâu dài.
Họ nương náu dọc theo sông Cánh Hòm. Cũng rày đây mai đó rồi họ thường neo đậu ở đoạn eo chính là làng Xuân Mỵ văn chương nức tiếng. Thấy dân vạn chài không một tấc đất cắm dùi, lênh đênh gian khó, người dân ở Xuân Mỵ thương tình đã nhượng lại 2 mẫu đất giữa làng cho bà con ngư dân phơi lưới, lâu dần thành đất sinh cư tử táng.
Khi tôi theo anh Trần Văn Sắt lên chiếc thuyền bủa lưới trên sông, mới biết thêm rằng bà con Bách Lộc xa xứ vào tận huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận, dù lo toan cơm áo vẫn không nguôi nhớ về quê cũ. Họ đặt tên làng nơi đất mới là Bách Lộc.
Vậy là có một núm ruột sông Cánh Hòm an cư lạc nghiệp tại vùng cực Nam Trung Bộ. Làng Bách Lộc gốc cứ hằng năm vào rằm tháng giêng là tổ chức lễ hội Cầu Ngư, cầu cho nhân dân hưng vật thịnh, mưa thuận gió hòa, cá tôm đầy lưới.
Trước đây, ghe thuyền theo sông Cánh Hòm thông thương từ Hiền Lương cho đến Thạch Hãn. Rồi cuối thế kỷ XX, vào thời bao cấp, ngành thủy lợi đã xây đập ngăn mặn giữ ngọt tưới mát cho đồng lúa của 6 xã phía Đông huyện Gio Linh, mở ra những vụ mùa no ấm làm tăng sản lượng lương thực chính cho bà con.
Vậy là dòng sông con nước đã khác xưa.
Hướng đến sự giao lưu hòa hợp
Có lẽ mọi chuyện trong thiên nhiên cũng phải theo luật bù trừ. Không còn nước mặn nên làng Thủy Khê, xã Gio Mỹ chẳng thể trồng cói – nguyên liệu cho làng Lâm Xuân dệt chiếu. Vậy là một nghề truyền thống ở đây mai một dần rồi biến mất.
Hôm về làng Thủy Khê, tôi mới hiểu thêm dâu bể của dòng sông. Ông Lê A, một bậc cao niên vùng này, bẻ những cọng cói còn sót lại bên sông Cánh Hòm xưa cũ để thuyết minh về nghề trồng cói nay chỉ còn trong nỗi nhớ của những người lớn tuổi. Mắt ông trong chiều sáng lên khi nhắc đến những ngày chưa xa lắm, khi dân Thủy Khê còn trồng cói mà thu lại áo cơm.
Nắng chiều chiếu rọi gương mặt thời gian từng đường nét như điêu khắc dung mạo một nhân chứng Cánh Hòm. Tự dưng làm tôi nhớ mấy câu trong bài thơ “Sông Lấp” của cụ Tú Xương mà hoang mang da diết: “Sông kia rày đã nên đồng/ Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai/ Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò…”.
Khi đứng ở phía Bắc sông Hiền Lương, ngắm nhìn ngã ba sông Cánh Hòm nhập vào con nước Bến Hải, tôi chợt nhận ra rằng không chỉ nhân sinh mới cần bầu bạn mà thiên nhiên cũng luôn hướng đến sự giao lưu hòa hợp để khai thông huyệt đạo của mình.
Dòng nước dù mải miết quanh co, phiêu lưu tưởng chừng vô định nhưng rồi bằng một cách nào đó, cũng phải tìm về với biển, như bạn hữu dang tay, người gặp được người.
Bài và ảnh: Phạm Xuân Dũng
Nguồn báo điện tử Người lao động
https://nld.com.vn/thoi-su/tinh-nguoi-noi-nga-ba-song-20220702203822175.htm