Thành, tháp, gốm: Dấu tích Chăm bên dòng sông Côn

10:41 | 16/04/2018

Dọc bờ sông Côn (Bình Định), đã tự rất lâu là nơi người dân Champa cư trú. Cho dù, đế chế Chăm chỉ tồn tại 5 thế kỷ tại vùng đất miền Trung này nhưng đã để lại những dấu ấn rất riêng làm nên nét đặc sắc của Bình Định được cả thế giới biết đến. Sau những biến cố lịch sử, có nhiều di tích, công trình cổ Champa đã bị phá hủy. Tuy những gì còn sót lại không nhiều nhưng cũng đủ để nhìn nhận lại một nền văn hóa Chăm đặc sắc, có thể gói gọn trong ba chữ “thành, tháp, gốm”.

Tháp Bánh Ít (Tháp Bạc)

Thành cổ chỉ còn những nét hoang sơ

Các thư tịch cổ và những tác phẩm Thiên Nam chí lộ đồ thư; Lịch triều hiến chương loại chí; Đại Nam nhất thống chí; Đồ Bàn thành ký cho biết vùng đất Bình Định xưa có tổng cộng 4 tòa thành cổ, nhưng thực tế hiện tại chỉ còn 3 tòa thành lưu lại dấu tích. Cả 3 tòa thành này đều phân bố dọc theo lưu vực sông Côn và nằm cách nhau từ 10 đến 12 km. Đó là thành Chas (Nhơn Lộc-An Nhơn), thành Đồ Bàn (Nhơn Hậu-An Nhơn) và thành Thị Nại (Phước Hòa-Tuy Phước). Sự có mặt của 3 tòa thành cổ đã phần nào nói lên tầm quan trọng của vùng đất Bình Định dưới thời vương quốc Chăm, đặc biệt là thành Đồ Bàn.

Năm 982 dưới triều đại vua Yangpuku Vijaya (âm Hán-Việt là Ngô Nhật Hoan ?) thành Đồ Bàn được xây dựng. Thành này được các sử gia gọi đúng chức năng của nó là kinh đô Vijaya. Đây cũng là kinh đô cuối cùng của vương quốc Champa, các vua Chăm đã đóng đô ở đây đến thế kỷ XV. Từ khi xây dựng kinh đô bên dòng sông Côn đất đai trù phú, đời sống phồn thịnh, dệt vải, điêu khắc mang đậm dấu ấn Chăm, những điệu múa của các thiếu nữ Chăm dưới ngọn lửa đêm trong tiếng chiêng đồng làm say lòng kẻ khác.

Năm 1471, vua Lê Thánh Tông huy động một đội quân hùng mạnh sang đánh Chăm. Quân nhà Lê đã hạ được thành sau cuộc giao tranh đẫm máu. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì quân Việt đã bắt sống hơn 30.000 người Chiêm, trong đó có vua Trà Toàn còn 40.000 lính Chiêm tử trận. Đồ Bàn từ đó bị bỏ hoang.

Mãi đến cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn tự xưng là Trung Ương Hoàng Đế đã ra lệnh xây dựng thành mới trên nền cũ thành Đồ Bàn để làm kinh đô, lấy tên là thành Hoàng Đế. Năm 1799 quân chúa Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm thành Hoàng Đế và đổi tên là thành Bình Định. Sang triều Gia Long năm 1816, nhà vua cho phá bỏ thành Bình Định và chuyển thủ phủ về Quy Nhơn.

Qua những biến đổi thăng trầm, di tích Đồ Bàn hiện nay chỉ còn sót lại lớp tường lũy bằng đá ong không lành lặn, phía trong thành là lối đi lát đá hoa cương, một thửa giếng vuông, tượng voi đá, và bên cửa hậu là gò Thập Tháp. Một thời vàng son Champa đã ngủ vùi trong thớ đất, nhìn lại những đổ vỡ hoang tàn hẳn khiến nhiều người không khỏi xót xa…

Tường thành Đồ bàn, nhìn từ bên ngoài.

Tháp cổ Champa –  Hạt ngọc giữa trời

Tháp là một dạng kiến trúc tôn giáo mang bản sắc rất riêng của dân tộc Chăm, theo các sử liệu thì người Champa đã xây dựng khá nhiều đền đài. Nhưng trải qua những cuộc chiến tranh liên miên, cộng với sự tàn phá của thiên nhiên, con người, cho đến nay trên vùng cư trú xưa của họ chỉ còn lại một số ít dạng kiến trúc đền đài ấy. So với một số địa phương khác trong dải đất miền Trung, Bình Định là một trong những nơi còn để lại khá nhiều dấu tích của nền văn hóa Chăm với 8 cụm di tích tháp trên tổng số 14 tháp phân bố bên đôi bờ sông Côn.

Tháp Chăm trong Ấn Độ giáo người ta gọi là Sikhara, một dạng kiến trúc tiêu biểu cho đạo Bà-la-môn. Các tháp đều được xây dựng theo một tín ngưỡng thống nhất thờ thần Shiva, một trong tam vị nhất thể của đạo Bà-la-môn. Shiva tượng trưng cho sự sáng tạo và hủy diệt, hai vị thần kia là Visnu tượng trưng cho sự bảo tồn và Brahma tượng trưng cho sự sinh thành, cả ba nằm trong vòng luân chuyển không ngừng. Người Chăm thờ thần Shiva là chính, tín ngưỡng này được kết hợp với tục thờ cúng tổ tiên tạo thành bản sắc riêng trong đời sống tinh thần của họ.

Kỹ thuật kiến trúc và điêu khắc Chăm cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu. Làm thế nào để ghép tất cả những viên gạch nâu sẫm một cách chính xác và tinh xảo thành những tháp, tượng hoành tráng đến vậy? Cái gì đã tạo thành sự kết dính của những viên gạch ấy khiến nó có thể đứng vững hơn một ngàn năm nay? Đã có nhiều cuộc khảo nghiệm và hội thảo diễn ra nhưng vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Chính điều đó cũng đã gây không ít khó khăn trong quá trình trùng tu và giữ gìn di sản.

Tường thành Đồ bàn, nhìn từ bên ngoài.

Tồn tại trong 5 thế kỷ, trên vùng đất Bình Định xưa người Champa đã xây biết bao những kiến trúc tôn giáo. Những gì còn sót lại hôm nay chỉ là một phần nhỏ trong những di sản mà người Chăm làm ra. Những tháp Chăm còn lại hôm nay là những viên ngọc quý của nền kiến trúc cổ Việt Nam cũng như văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á. Khi định niên đại cho các tháp Chăm thuộc phong cách Bình Định, các nhà sử học và khảo cổ học đã đưa ra một giả định như sau: Phong cách bắt đầu từ tháp Bánh Ít hay còn gọi là tháp Bạc (nửa đầu thế kỷ XII), tháp Dương Long (đầu thế kỷ XIII), tháp Hưng Thạnh (nửa đầu thế kỷ XII), nở rộ ở các tháp Thủ Thiện, Cánh Tiên (hay tháp Đồng), Phú Lốc (hay tháp Vàng) thuộc thế kỷ XIII.

Trong đó, tháp Cánh Tiên ở thị xã An Nhơn được xây dựng vào thế kỷ thứ XII, dưới đời vua Chế Mân (Jaya Sinbavarman III). Tương truyền, đây là ngôi tháp Chế Mân dành tặng hoàng hậu Paramecvari tức Huyền Trân công chúa, người con gái Việt cao quý đã đặt quyền lợi dân tộc mình lên trên hết, cùng vua Chế Mân kết mối lương duyên lịch sử.

Đặc biệt, khi đi qua đoạn cầu Đề Gi (nơi giao nhau giữa quốc lộ 1 và quốc lộ 19) nhìn về phía Đông – Bắc tầm 500m, ta sẽ thấy chon von những ngọn tháp cao trên đỉnh đồi in nền trên nhánh sông Côn, đó chính là cụm tháp Bánh Ít gồm 4 tháp: tháp Cổng, tháp Hỏa, tháp Bia và tháp Chính. Di tích được xếp hạng vào cấp quốc gia ngày 24/12/1982. Tháp này đã được đưa vào cuốn sách “1.001 công trình kiến trúc phải đến trong cuộc đời” của một nhóm tác giả người Anh. Đây cũng là công trình kiến trúc cổ duy nhất của Việt Nam lọt vào cuốn sách này.

Cuốn sách là một công trình của nhiều tác giả đến từ nhiều nơi trên thế giới, do cây bút chuyên viết về kiến trúc Mark Irving làm Tổng Chủ biên, Quintessence xuất bản (Anh), được những giáo sư, kiến trúc sư, nghiên cứu sinh đầu ngành chuyên viết về kiến trúc biên soạn. Trong đó, phần viết về tháp Bánh Ít do Stephen Anthony Murphy, một nhà khảo cổ học từng làm việc tại nhiều quốc gia như Anh, Pháp, Thái Lan, Ireland, Singapore và Nhật Bản, đã nhận bằng Tiến sĩ về khảo cổ học Đông Nam Á tại Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi, Đại học London, Anh, chắp bút. Đây không những là niềm tự hào của người dân Bình Định mà còn là niềm vui lớn của Việt Nam.

Gốm cổ, nét văn hóa tinh xảo của người Chăm (?)

Các khu lò gốm Bình Định tính đến nay có 5 nhóm. Riêng ở thị xã An Nhơn có đã có 3 nhóm gồm: Gò Sành, Gò Cây Ké, Gò Hời. Tất cả các khu di tích này đều nằm dọc hai bờ sông Côn chảy vào vịnh Thị Nại (cảng Quy Nhơn ngày nay), một vị trí thuận lợi để vận chuyển bằng đường thủy. Trong đó, gốm cổ Gò Sành tại Phụ Quang được các nhà nghiên cứu quan tâm nhất.

Tháng 3/1974, một đoàn khảo cổ học từ Sài Gòn đã đến Phụ Quang (thuộc Nhơn Hòa, An Nhơn, Bình Định) để tìm hiểu nghiên cứu. Tuy chưa có cuộc khai quật nào nhưng họ đã đưa ra giả thuyết về chủ nhân những đồ gốm nơi đây là người Chăm. Hơn 10 năm sau, dựa vào những hiện vật gốm có nguồn gốc từ Gò Sành trong bộ sưu tập của Hà Thúc Cần, trong luận văn tiến sĩ của mình, Rosana Brown – một chuyên gia nghiên cứu gốm cổ Đông Nam Á đã giành một chương viết về đồ gốm và khu lò gốm Gò Sành. Từ những thông tin trên, Viện khảo cổ học Hà Nội, Bảo tàng Tổng hợp Bình Định đã hoạch định một chương trình nghiên cứu lâu dài tại Gò Sành và toàn bộ di tích gốm cổ trên đất Bình Định.

Di chỉ lò gốm ở Gò Sành.

Năm 1987-1990, cùng với Viện Khảo cổ học, Sở Văn hóa – Thông tin Bình Định đã tiến hành điều tra tổng thể các loại hình di tích văn hóa Chămpa, lập hồ sơ khoa học và bản đồ khảo cổ học các di tích phế tích trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Đáng chú ý là từ những năm 1990-1994, Viện Khảo cổ cùng phối hợp với Sở Văn hóa – Thông tin Bình Định điều tra, khảo sát, khai quật một số địa điểm thuộc trung tâm sản xuất gốm Gò Sành (Nhơn Hòa – An Nhơn – Bình Định) và xác định một số di tích lò gốm khác thuộc An Nhơn và Tây Sơn.

“Từ cách đây 20 năm, đã có rất nhiều người tìm đến Gò Sành để mua các loại chén, đĩa, bình cũ. Họ sẵn sàng đổi nguyên bộ chén bát mới để lấy một cái đĩa cũ có chạm khắc hoa văn. Nhiều người dân đã bán hoặc đổi, về sau họ mới biết những món đồ cũ kia giá trị hơn nhiều. Dọc bờ sông Côn, vẫn còn nổi lên những mảnh sành sứ đã vỡ. Có người đã nhặt được những cái bát cũ còn nguyên, khi búng ngón tay vào kêu rất thanh”, ông Nguyễn Văn Lâm, chủ của thửa đất khai quật lò Cây Mận, chia sẻ.

Đến năm 1994 bên cạnh các nhà khoa học Việt Nam, có thêm sự hợp tác của các học giả Nhật Bản. Trong số các di chỉ lò đã được xác định ở 5 vị trí thuộc phạm vi vùng Vijaya trước đây, lò Cây Mận, lò Cây Quăng và lò Hời nằm ở khu lò gốm Gò Sành.

Hiện nay, sản phẩm gốm Gò Sành được lưu giữ khá nhiều trong Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định. Xem xét và nghiên cứu bộ sưu tập này có thể giúp ta hình dung rõ nét hơn về vai trò của di tích khu lò gốm này trong lịch sử. Những sản phẩm được sản xuất ở Gò Sành phần lớn xương có màu xám mực, đỏ nhạt, kỹ thuật giai đoạn sớm dùng con kê, men tráng gần sát đáy, giai đoạn muộn dùng kỹ thuật ve lòng. Men gốm dày đều và màu men không ổn định đã tạo ra một sắc thái riêng cho gốm Gò Sành.

Những thông tin gần đây cho biết, gốm Gò Sành Bình Định sản xuất ra không chỉ để phục vụ đời sống người Chăm đôi dòng sông Côn mà còn tham gia vào thị trường xuất khẩu sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn là Ai Cập. Trong số những hiện vật tìm thấy trên con tàu đắm ở quần đảo Calatagan ngoài khơi đảo Pantanan thuộc Philipphines có tới hàng ngàn đồ gốm có xuất xứ Gò Sành.

Cho đến nay, chưa có đủ tư liệu để khẳng định một cách chắc chắn niên khởi đầu cho việc sản xuất đồ sành xứ ở Gò Sành nói riêng và của người Chăm nói chung, nhưng qua những kết quả khai quật khảo cổ tại Gò Sành và ở nước ngoài có thể thấy rằng giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nghề sản xuất sành sứ ở đây nằm trong khoảng thế kỷ XV-XVI. Có một số chuyên gia Việt Nam cho rằng khởi điểm của việc sản xuất gốm Bình Định có thể bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII đến thế kỷ XV, chậm lắm là đến thế kỷ XVI.

Căn cứ vào các tư liệu lịch sử liên quan đến quá trình hình thành và phát triển vùng đất Bình Định, phân tích loại hình các sản phẩm được sản xuất ra, so sánh những mô típ trang trí trên các hiện vật với những tư liệu điều tra dân tộc học có thể đi tới kết luận: chủ nhân lò gốm Gò Sành và các khu lò gốm cổ khác ở Bình Định không ai khác ngoài người Champa cổ.

Như vậy, gốm cổ kết hợp với kiến trúc xây dựng độc đáo của những ngọn tháp đặc sắc, tinh tế và những vết tích lưu lại của thành cổ Champa đã tạo nên một văn hóa Chăm bên dòng thủy lưu Côn giang sẽ còn lưu truyền mãi đến tận muôn đời./.

 

Theo Văn Phi/VHVN

 

Cùng chuyên mục

Hà Tĩnh: Xúc động chương trình nghệ thuật “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”

Hà Tĩnh: Xúc động chương trình nghệ thuật “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”

Hà Tĩnh: Long trọng hội thảo nhân kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Cố Tổng bí thư Trần Phú

Hà Tĩnh: Long trọng hội thảo nhân kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Cố Tổng bí thư Trần Phú

Tuyên truyền phòng, chống ma túy và các tệ nạn xã hội cho các em học sinh

Tuyên truyền phòng, chống ma túy và các tệ nạn xã hội cho các em học sinh

Đà Nẵng và triển lãm mỹ thuật “Nắng Tháng 4”

Đà Nẵng và triển lãm mỹ thuật “Nắng Tháng 4”

Phong Nha – Kẻ Bàng ngày càng khẳng định vị thế và phát triển về du lịch

Phong Nha – Kẻ Bàng ngày càng khẳng định vị thế và phát triển về du lịch

Chỉ thị số 40-CT/TW và sức mạnh từ sự đồng lòng ở Ea H’Leo

Chỉ thị số 40-CT/TW và sức mạnh từ sự đồng lòng ở Ea H’Leo

Chuyên gia Mai Nguyễn Hoàng Nam: Nếu chưa đủ tư duy, kiến thức thì khoan hẳn khởi nghiệp, chỉ nên “lập nghiệp”

Chuyên gia Mai Nguyễn Hoàng Nam: Nếu chưa đủ tư duy, kiến thức thì khoan hẳn khởi nghiệp, chỉ nên “lập nghiệp”

Carnaval Hạ Long 2024: Một Lễ Hội Đầy Sắc Màu và Công Nghệ

Carnaval Hạ Long 2024: Một Lễ Hội Đầy Sắc Màu và Công Nghệ

Nhân tố của đại đoàn kết dân tộc ở một vùng quê

Nhân tố của đại đoàn kết dân tộc ở một vùng quê