SÓNG ĐỜI là tập thơ thứ 5 của nhà thơ cựu chiến binh Trần Ngọc Phượng, hội viên Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, do NXB Hội Nhà Văn ấn hành năm 2023. Tập thơ tập hợp hầu hết những bài thơ của anh viết từ những năm tháng tuổi trẻ, tham gia chiến đấu ở chiến trường Nam bộ, cho đến những bài thơ sáng tác rải rác sau đó và cả những bài thơ anh viết trong thời gian gần đây.
Nhà thơ CCB Trần Ngọc Phượng
Có thể xem Sóng đời như bản nhật ký về hành trình sống, hành trình cuộc đời vô cùng phong phú, đa sắc màu của Trần Ngọc Phượng. Ở đó mọi ký ức, niềm vui, nỗi buồn được nhà thơ giãi bày một cách chân thành, hồn hậu. Bản lĩnh, cốt cách của một người lính đã hun đúc nên một con người sống có tình cảm, có tinh thần ý thức trách nhiệm công dân. Điều này được thể hiện rõ nét và xuyên suốt trong cả tập thơ.
Sóng đời gồm 162 bài thơ được chia làm 3 phần: Dòng sông quê hương; Ký ức; Dốc chiều. Việc chia bố cục như thế là có dụng ý của nhà thơ Trần Ngọc Phượng. Đó là sự sắp xếp theo lôgic và theo dòng hoài niệm, sự liên tưởng trong cái nhìn đa chiều của nhà thơ.
Dòng sông quê hương, nơi Trần Ngọc Phượng đã một thời tuổi thơ tắm mát, nơi cất giữ nhiều kỷ niệm đẹp của thuở thiếu thời. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, Trần Ngọc Phượng phải chào tạm biệt dòng sông quê hương để vào Nam làm nhiệm vụ: Con sông chảy qua một thời gian khó/ Ấm áp tình thương ngôi nhà đầu phố/ Sóng nào dìu tôi qua sông vượt lũ/ Đò nào đưa tôi ra đi từ đó. Hiwã chiến trường ác liệt, bao nhiêu ký ức về quê hương và cả những tháng ngày gian khó cứ canh cánh bên lòng. Đất nước hòa bình, ở vào tuổi “dốc chiều”, nhà thơ lại “trở về dòng sông xưa” để “tìm lại quãng đường trai trẻ”. Lòng lại rưng rưng nhớ một thời đã qua, ngẫm ngợi về cái được mất của quá khứ và cả hiện tại trong nỗi niềm day dứt, trăn trở, suy tư: Bến bờ neo cuối đời/ Cũng bên bồi bên lở/ Cay đắng và ngọt bùi/ Là tình đời muôn thủa.
Mảnh đất Nam Định là nơi mà Trần Ngọc Phượng có những năm tháng tuổi thơ, lớn lên và học hành ở đó. Vì thế, hình ảnh của đất và người quê hương Thành Nam luôn hiện diện trong tâm thức của nhà thơ. Chính mảnh đất này đã trở thành cội nguồn sinh dưỡng, chỗ dựa tinh thần vững chắc để cho Trần Ngọc Phượng vững tâm sống, chiến đấu, làm việc cho đến ngày hôm nay. Vì thế dù có đi đâu, làm gì, dù có rời xa “chốn cũ” nhưng tận trong sâu thẳm tâm can anh vẫn luôn hướng về nơi đóbằng một tình cảm thân thương đến lạ. Nhà thơ nhớ tất cả hình ảnh quê nhà với từng con người, cảnh vật, góc phố, con sông, cánh đồng… Nam Định những phố xưa/ Trải dài theo nỗi nhớ/ Len lỏi vào giấc mơ/ Nỗi lòng người xa xứ/ Hàng Nâu liền Hàng Bát/ Hàng Mâm nối Hàng Song/ Đi học qua Hàng Cót/ Vào chợ qua Hàng Đồng/… Tuổi trẻ sống vô tư/ Thả diều nơi Gốc Mít/ Tập bơi hồ La Két/ Đá bóng sân Khoái Đồng// Thành phố như bàn tay/ Ta ấp vào lồng ngực/ Đường phố như chỉ tay/ Dọc ngang trong ký ức… (Nam Định những phố xưa).
Trong hành trình làm người, khi đã ý thức được sự yêu thương, mối quan hệ ruột rà, máu mủ thì nhà thơ chưa bao giờ nguôi quên đấng sinh thành và những người thân yêu ruột thịt. Để rồi, khi đã đi qua bao dâu bể, sương gió của cõi người Trần Ngọc Phượng lại càng trân quý, càng yêu thương hơn gấp bội phần. Hình ảnh “Nơi bậu cửa Cha ngồi” đã ăn sâu vào tiềm thức của đứa con xa quê như anh. Vì thế, khi trở về quê cũ, việc đầu tiên là Trần Ngọc Phượng tìm lại ngôi nhà xưa với bao nhiêu ký ức của cả gia đình gắn liền ở đó: Con về quê/ Tìm lại ngôi nhà xưa/ Nơi bậu cửa/ Cha ngồi/ Chờ đàn con trốn nhà, đi bơi, đá bóng/ Ba ngồi lặng yên/ Trong buổi chiều ảm đạm/ Chúng con về/ Len lét sợ đòn roi/ Bữa cơm nghèo/ Cha chống đũa nhìn/ Những đứa con vô tư/ Khua nồi vét đĩa/ Mẹ ra đi khi ba còn trẻ/ Một mình ba gà trống nuôi con… … Chúng con ăn năn/ Chưa lo cho Ba được phút giây thanh thản/ Cả đời người chìm nổi trầm luân/ Trong xã hội một thời binh đao khói lửa/ Người ra đi/ Nước nhà vẫn còn nghèo khổ/ Nhưng an lòng/ Với bốn đứa con/ Nên người tử tế/ Trong đất nước cựa mình đổi thịt thay da/ Nén nhang này/ Con xin tạ lỗi/ Với đất trời…
Biểu tượng quê hương, dòng sông, con đường, thời gian, đêm, ngày, tháng… trong “Sóng đời” của Trần Ngọc Phượng được dùng với tần số dày đặc. Đó cũng là cách để nhà thơ chuyển tải được hết những cung bậc cảm xúc, ký gửi tất cả những nỗi niềm của bản thân về con người, cuộc đời và thời cuộc.
Hơn 10 năm trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường, tham gia nhiều trận chiến, đi đến nhiều nơi, gặp rất nhiều người, qua nhiều vùng đất, chứng kiến không biết bao cảnh tượng bi hùng… Nhưng có lẽ ám ảnh nhất đối với Trần Ngọc Phượng là sự hy sinh của những người đồng chí, đồng đội. Anh nhớ tất cả từ khi mình bước chân vào Nam cho đến lúc đất nước hoàn toàn độc lập: anh đi những đâu, làm những gì, gặp những ai… và cả những băn khoăn, trăn trở, day dứt, xót thương về những điều đã xảy ra, những thứ đang hiện hữu ở hiện tại. Tất cả được anh ghi lại rất cụ thể, chi tiết bằng những lời tâm tình rất đỗi tự nhiên, lối nói nhẹ nhàng, chững chạc nhưng cũng rất dứt khoát, chân tình. Chỉ đọc tên những bài thơ đã thấy hiện lên những điều đó: Ký ức Mậu Thân; Ngã ba Cây Cầy; Bên nấm mộ vô danh; Mười cô gái ngã ba Đồng Lộc; Cái ba lô con cóc; Chiều núi Ông; Sốt rét; Đêm mưa; Tiền phương; Anh báo vụ; Đứng gác đêm trăng; Tháng Tư Long Khánh; Họp mặt sư đoàn; Bến không chồng; Chiều nghĩa trang Trường Sơn; Gió tháng Tư; Trận địa bến sông; Bà Rịa thân thương; Cảm xúc tháng Tư; Dọc đường miền Trung; Lời thề ấy đi cả đời chưa trọn…
Là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường, những lúc khó khăn nhất, nguy hiểm nhất, cái chết cận kề… nhưng không thể làm cho anh chùn bước. Niềm tin và ý thức của một người lính “bộ đội cụ Hồ” đã tiếp cho anh sức mạnh. Giữa mưa bom, bão đạn những đồng chí, đồng đội của anh có người đã hy sinh không kịp nói lời từ biệt. Chứng kiến những cảnh đau thương ấy làm cho Trần Ngọc Phượng không khỏi day dứt, nghẹn ngào. Có những bài thơ anh chép vào nhật ký mà cho đến tận bây giờ anh vẫn còn cất giữ. Nhà thơ xem đó là những kỉ vật của đời mình. “Khóc bạn” là bài thơ Trần Ngọc Phượng viết cho Dũng, người bạn, người đồng chí thân yêu đã hy sinh cạnh mình trong trận chống càn vào tháng 6-1968 tại Bảo Bình, Long Khánh bằng tiếng khóc nấc nghẹn: Dũng chết rồi, Dũng không còn nữa/ Tim không đập và ngực không còn thở/ Dũng chết rồi có phải thật không?/ Nét mặt đây máu vẫn tươi hồng/ Mắt nhắm lại hiền lành như giấc ngủ/ Ta bàng hoàng không sao tin được/ Dũng bỏ mình đi không nói đến một lời/ Hỡi bạn quê hương thương mến ơi/ Ta sống với nhau mấy mùa mưa nắng/ Bom đạn quanh mình sống chết vào ra/ Mà nay đành phải cách xa/ Quân thù đã giết bạn ta mất rồi/ Máu xương đồng chí ta ơi!/ Xót xa căm giận sục sôi trong lòng… Đây là một trong số những bài thơ cảm động viết về người đồng chí, đồng đội của của Trần Ngọc Phượng. Đó là những tình cảm chân thật, được viết ra bởi một con người đã từng đi qua hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh. Nỗi đau ấy vẫn dai dẳng, đau đáu khôn nguôi cho đến thời hậu chiến.
Nhưng chính nhờ những hy sinh lớn lao của nhiều đồng chí, đồng đội ở khắp các chiến trường đã tạo nên bước ngoặt cho cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và đi đến đại thắng mùa xuân 1975, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang cho lịch sử nước nhà. Đất nước hòa bình, người cựu chiến binh năm nào may mắn trở về vỡ òa trong niềm hạnh phúc tột cùng. Được gặp lại bạn bè, người thân, đồng chí, đồng đội của mình sau bao nhiêu năm xa cách. Gặp lại người đồng đội cũ sau 50 năm xa cách, Trần Ngọc Phượng không giấu được sự vui mừng, xúc động: Năm mươi năm, mới gặp nhau/ Chúng mình giờ đã bạc đầu gió sương/ Bên nhau ôn chuyện chiến trường/ Một thời gian khó, bão giông hiện về/…/ Dấu chân trên đất Thủ Biên/ Vượt qua Sông Bé đường lên Cây Cầy/ Dốc Năm Cua tựa khuỷu tay/ Bao nhiêu đồng đội đến nay không về// Em cười đôi mắt đỏ hoe/ Cảm ơn trời đất chở che đến giờ/ Cứ an nhiên sống như xưa/ Mặc nhìn chiếc lá vật vờ cuối thu…
Với một người lính như Trần Ngọc Phượng, anh cho rằng những năm tháng ở chiến trường đó là những năm tháng không thể nào quên. Bởi ở đó gắn liền với bao kỷ niệm, mà mỗi lần nhắc đến lòng lại rưng rưng: Có thể nào anh lại quên em/ Như quên đi một thời trai trẻ/ Kỷ niệm xưa như bông hoa mới hé/ Cả đời ta chưa khép lại bao giờ/ Em nhớ không buổi tối mùa mưa/ Anh lội qua những hố bom chi chít/ Để được nghe giọng em tha thiết/ Tiếng quê hương giữa đất miền Đông…
Trở về sau chiến tranh, sống trong những năm tháng đất nước hòa bình, độc lập nhà thơ có điều kiện đi đến nhiều nơi trên dải đất cong cong như hình chữ S này. Dấu chân Trần Ngọc Phượng đã in dấu trên mọi miền đất nước, từ địa đầu phía Bắc – Lũng Cú đến cực Nam – Mũi Cà Mau. Là người tinh tế, nhạy cảm nên nơi nào anh đi qua cũng đều để lại những dấu ấn riêng. Điều này được Trần Ngọc Phượng ghi lại bằng những bài thơ cụ thể ở từng vùng đất mà anh đã đến như: Lũng Cú; Từ tận cùng chữ S; Nụ cười Thành Cổ; Hòn Chồng; Du lịch Đắc Lắk; Tết Đà Lạt; Hải Đăng Kê Gà; Cà Ná; Về quê em; Cà Mau…
Sau Đại thắng mùa xuân 1975 cho đến hôm nay, trong các dịp lễ, tết, các ngày kỷ niệm lớn Trần Ngọc Phượng thường trở “về nguồn” và gặp lại những người đồng đội, đồng chí của mình. Niềm vui xen lẫn nỗi buồn, vui vì thấy mình may mắn còn sống, được sống hạnh phúc bên gia đình, vợ con, cháu chắt; vui vì được gặp mặt những người bạn một thời vào sinh ra tử để hàn huyên trò chuyện… Nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều nỗi buồn len lỏi tạo nên những nỗi day dứt khôn nguôi. Những người đồng chí đồng đội, sau mấy mươi năm vẫn chưa tìm được hài cốt; những người may mắn còn sống trở về có người lại sống trong bệnh tật do di chứng của chiến tranh và khó khăn vào tuổi xế chiều; họp mặt mỗi năm điểm danh lại thiếu vắng… Bên cạnh đó, nhà thơ còn mang một nỗi buồn lớn đó là phải đối mặt với nhiều bất trắc của thời hiện tại mà anh đang sống.
Quá khứ đồng hiện cùng với hiện tại và cả những dự cảm về tương lai trở thành thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong thơ Trần Ngọc Phượng. Đó không chỉ là sự nhắc nhớ, lòng biết ơn sâu sắc với quá khứ, biết quý trọng hiện tại và sống có lý tưởng, trách nhiệm với tương lai. Với Trần Ngọc Phượng, Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu nghĩa tình và bao dung. Đất và người Sài Gòn hào sảng, luôn mở rộng vòng tay chào đón tất cả bằng tình thương mến, sẻ chia. Vì thế, tận trong sâu thẳm con tim mình, anh tự hào mình là người Sài Gòn, được làm người Sài Gòn: Sài Gòn đây/ Đất lành chim đậu/ Anh sinh ra/ Biền biệt bốn phương trời/ Cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ/ Gọi anh về nơi cắt rốn chôn nhau/ Đến bây giờ tóc trắng bạc đầu/ Vẫn muốn hỏi/ Mình Sài Gòn chưa nhỉ? Yêu Sài Gòn, tự hào về Sài Gòn nên nhà thơ luôn dõi theo và quan tâm đến những đổi thay của thành phố thân yêu. Ấn tượng và thiết thực nhất là việc giải tỏa những ngôi nhà ổ chuột, cải tạo dòng kênh ô nhiễm, đem lại môi trường trong lành cho thành phố: Hơn bốn mươi năm rồi/ Em ơi còn nhớ/ Con kênh đen giữa lòng thành phố/ Bạt ngàn những túp lều khốn khổ/ Chông chênh mấy cột cây/ Ngập tràn rác rưởi/ Anh ngỏ lời đến thăm/ thương mắt em bối rối… /… Tháng năm nào quên/ Một thời ngụp lặn/ Tuổi trẻ ta ngâm mình nạo vét/ Con cái ta/ Thiết kế dựng xây./ Con kênh giờ in bóng hàng cây/ Đàn cá về tung tăng bơi lội…
Gia đình là chỗ dựa vững chắc nhất đối với nhà thơ Trần Ngọc Phượng. Vì thế lúc còn nhỏ, đến khi trưởng thành, lập gia đình và cả khi về già nhà thơ vẫn luôn dành tình cảm đặc biệt với tất cả những người ruột thịt. Ngoài tình cảm thiêng liêng dành cho ông bà, cha mẹ, anh, chị, em thì Trần Ngọc Phượng vẫn dành tình cảm ấm áp, sự quan tâm chở che dành cho vợ và con cháu của mình qua những bài thơ, như: Tặng vợ; Gửi con; Nắng và Gió; Thiên thần bé nhỏ… Nhà thơ tự ý thức được chính mình, khi đã ở vào cái tuổi gần về “cuối dốc”:
Rồi đây về cuối con đường
Nắng chiều sắp tắt, khói hương sắp nhòa
Rồi đây còn chót tuổi già
Cứ mơ trăng gió như là còn xuân
Rồi đây rệu rã bước chân
Cứ vui những lúc quây quần bên nhau…
Tháng năm còn được bao nhiêu?
Xin đừng hiu hắt liêu xiêu cuối đời…
Hiện thực cuộc sống sau chiến tranh, đặc biệt là ở thời kỳ hội nhập vô cùng bộn bề, phức tạp, nhiều giá trị bị đảo lộn. Ý thức trách nhiệm công dân, bản lĩnh của người cựu chiến binh đôi lúc làm cho Trần Ngọc Phượng cảm thấy chạnh lòng với bao nỗi trăn trở, suy tư. Bởi bao bất cập của đời sống vẫn đang tồn tại và diễn ra trước mắt: Đường Trường Sơn cheo leo ghềnh thác/ Bước chân rung đòn gánh trĩu hai đầu/ Những đoàn quân xưa đi đánh giặc/ Máu xương còn để lại rừng sâu/ Anh đi vào tận cùng khúc ruột/ Trẻ đến trường còn lội suối, đu dây/ Nắng thì hạn, đồng khô đất nứt/ Mưa lũ về trắng ruộng dân cày…
Hoặc như khi gặp lại những người đồng đội cũ với những mảnh đời khác nhau. Có người may mắn có cuộc sống hạnh phúc bên gia đình, con cháu. Nhưng cũng có những đồng đội có hoàn cảnh khó khăn, cảnh ngộ đáng buồn như câu chuyện mà nhà thơ chuyển tải trong bài thơ “Chuyện của Dè”: Mười năm là chiến sĩ thông tin/ Quen trèo dừa nên giỏi mắc ăng ten/ Lo đánh giặc đâm ra ít học/ Chữ nghĩa không qua lớp đánh vần… / …Sau giải phóng trở về làm dân/ Huân chương dũng sĩ cất trong hòm/ Không nghề, không chữ, không ruộng đất/ Lại đi làm mướn để nuôi thân…
Nhà thơ Trần Ngọc Phượng và đồng đội
Đặc biệt, Trần Ngọc Phượng từ khi tuyên thệ vào Đảng cho đến tận hôm nay vẫn vẹn nguyên những tình cảm chân thực và xúc động. Vào Đảng là phải tiên phong đi trước, sẵn sàng hy sinh trên những con đường rập rình cái chết: Tôi tuyên thệ vào Đảng/ trong buổi lễ đơn sơ/ Không có hoa, có cờ/ Không có băng khẩu hiệu/ Ngay cả bạn tôi người giới thiệu/ Cũng hy sinh trong trận đánh chiều qua/ tôi đọc lời thề trong tiếng pháo tầm xa/ Trong thét rú bầy máy bay phản lực/ Vẫn ráng chiều hoàng hôn đỏ rực/ Trười quê hương không một phút bình yên/ Vẫn đồng đội sốt rét ngồi bên/ Vẫn con đường chiến tranh rập rình cái chết/ Mà sao nghe thiêng liêng giây phút/ Nghe gọi tên mình hai tiếng Đảng viên. Lời thề ấy, đã ăn sâu trong huyết mạch trở thành niềm tin, niềm tự hào của bản thân anh để hôm nay anh vẫn sống và làm việc có ích cho đời; mặc dù cuộc đời còn bao mối nguy khác luôn thường trực và trở thành nỗi lo canh cánh: Đất nước hòa bình/ Nhưng nào đã bình yên/ Giặc ngoại xâm, nội xâm đe dọa/ Biển trước mặt phơi đầy xác cá/ Rừng sau lưng trơ trọi gốc cây/ Trẻ đến trường/ Phải lội suối, leo dây/ Tàu ngư dân/ Bị đâm từ tàu lạ…
Rồi nữa, đồng tiền với sức mạnh ghê gớm của nó đã làm chao đảo nhiều thang bậc giá trị. Đồng tiền có thể mua quan, bán tước; đồng tiền có thể thay trắng đổi đen; lương tâm con người trở thành món hàng trao đổi: Bây giờ lắm của nhiều tiền/ Lương tâm đổi chác, chức quyền bán mua/ Nhớ không? Còn nợ ngày xưa/ Cốt xương liệt sĩ vẫn chưa tìm về… Câu hỏi đầy nhức nhối, đánh thức lương tri và trách nhiệm của những người đang sống hôm nay, nhất là những người đang giữ những vị trí, chức vụ chủ chốt của các cấp, các ngành…
Đáng lưu ý trong thơ Trần Ngọc Phượng, là dù anh nói nhiều, nhắc nhiều đến nỗi buồn, sự nhớ thương, nuối tiếc… nhưng vẫn không có sự bi lụy, não nề, bế tắc, tiêu cực. Ở đó là những trăn trở, suy tư đầy tinh thần trách nhiệm công dân. Sống có trách nhiệm với gia đình, nghĩa tình với đồng chí, đồng đội, chan hòa với bạn bè và mọi người xung quanh. Thơ Trần Ngọc Phượng với ngôn ngữ trong sáng, giản dị, đi thẳng vào lòng người đọc nhưng cũng không kém phần tinh tế và sâu lắng, gợi lên nhiều suy ngẫm cho bạn đọc: Đời đâu phải lập trình/ Nên chợt này chợt nọ/ Đủ cho ta giật mình/ Còn bao điều mắc nợ… Và: Ta đi suốt cuộc đời/ Đuổi theo miền sáng tối/ Rồi cũng về nghỉ ngơi/ Trong bóng đêm vời vợi… Vào tuổi tám mươi, Trần Ngọc Phượng vẫn viết những câu thơ ấm áp tình đời: Trăm năm trong cõi Ta Bà/ Mượn vay ai trả phúc quà ai cho…
Xin chúc mừng nhà thơ Cựu chiến binh Trần Ngọc Phượng với tập thơ mới, thăng hoa những nỗi niềm suy tư, trăn trở của một người lính trận giữa đời thường!
NGUYỄN VĂN HÒA