Mỗi lần về quê, bước xuống ngã ba đầu xóm, nơi đứa em gái của tôi dựng cái quán nhỏ bán hàng tạp hóa, gặp o Sen hàng xóm cũ, khi mô cũng được nghe cái câu thật thân thương: Mi đã uống nước chè xanh chưa rứa?. Rứa là tôi bước vô nhà o tìm tới cái bàn nơi góc nhà và rót ra một ly nước chè xanh uống ngon lành.
Thực ra, tôi chưa phải là đứa nghiện nước chè xanh, bởi khi ở phố, có khi cả tháng tôi không đụng đến ngụm nước chè xanh cũng chẳng sao. Nhưng cứ về quê là thèm uống nước chè. Nếu có ấm chè xanh ở nhà thì rót bưng ra hiên, bắc ghế ngồi ngó vườn và uống; khi nhà không có chè xanh thì xuống nhà o Sen. Mà trước khi vô lại Huế, nhất quyết phải ghé lại nhà o Sen uống thêm vài ly nước chè mới chịu. Đi chạp họ, ngó ra bên vườn thấy cả một thùng nước chè xanh đang bốc khói, rứa là tranh thủ uống một ly thơm mùi gừng trước khi ngồi vào mâm tiệc. Mới đây, tình cờ đọc tạp bút của một nhà văn kể về câu chuyện “ăn” nỗi nhớ, tôi mới chợt nhận ra mình “thèm uống” nỗi nhớ chè xanh mỗi khi về đến quê nhà…
Nhớ từng bó chè xanh của nội tôi gánh mỗi buổi sáng ra chợ. Bán chè xanh lời lãi chẳng bao nhiêu nhưng được cái nhà tôi luôn có sẵn chè xanh để uống hằng ngày. Quê tôi đất cát trắng nên không trồng được cây chè, để có chè xanh bán, bà nội cùng với mấy mệ bạn hàng nữa ở trong làng thức dậy khi chuông chùa làng điểm canh ba, ra bến Chợ theo đò ngược dòng Ô Lâu lên chợ Mỹ Chánh (tỉnh Quảng Trị) mua chè. Mỗi lần như rứa, nội mua chừng 2-3 bó chè to rồi chia ra từng bó nhỏ, cùng với mớ lá trầu xanh, mấy buồng cau, mấy xâu thuốc lá Phong Lai… để bán dần qua các phiên chợ làng buổi sáng. Lời lãi chẳng mấy, lại thức khuya dậy sớm nhưng đó là niềm vui tuổi già của nội vốn đã quen với không khí của chợ, của đò từ thời con gái đến khi lấy chồng sinh con đẻ cái. Đến lúc già yếu, không đi xa được nữa, nội vẫn mua lại chè xanh của người khác để bán, chủ yếu là có chỗ ngồi ở chợ để được bán, được mua, để được nghe chuyện này chuyện nọ trong làng, trong xã…
Cũng nhờ gánh chè xanh của nội nên nhà tôi có thể thiếu thịt, thiếu cá nhưng không thể thiếu nước chè xanh hằng ngày. Tôi còn nhớ vào những buổi tối thứ bảy, sau bữa cơm chiều, mẹ tôi lại vo chè, nấu nước chuẩn bị pha cho ba và mấy bác hàng xóm một ấm chè xanh mới để ngồi chuyện trò cuối tuần.
Mà không phải ai cũng chế nước chè ngon cả. Theo lời của mạ tôi, để có ấm chè nước vừa xanh, vị vừa chát vừa ngọt, phải lựa những lá chè nhỏ có màu xanh ngả vàng; mùa mưa thì chế nước mưa được chưng cất lâu ngày là ngon nhất; mùa hè, thường lấy nước mội (lỗ nước phun từ chân độn cát) hoặc nước giếng trong, nước chè nấu ra mới vừa ngon vừa đậm đà… Tất nhiên, cùng với chè, phải đập thêm mấy lát gừng tươi cho vào ấm nước mới đủ vị và để nước chè ngon còn phụ thuộc tay người vò chè nữa…
Nhớ cái lồng ấp được đan bằng sợi nhựa rất khéo, bên trong là lớp vải lụa sa tanh màu vàng óng. Mạ thường vo chè cho vào cái ấm sành rồi để trong lồng ấp giữ nước chè luôn được ấm nóng. Cái ấm sành màu trắng đục, có vẽ hình ông Thọ, cô tiên, chú tiểu đồng và con nai nhìn rất hiền, không biết có nhà nào ở quê còn giữ lại được đến bây giờ không? Cái ấm sành luôn cho nước chè vàng sóng sánh và nước luôn ấm đó hồi trước hầu như nhà mô cũng có. Cũng như nước trà, nước chè xanh chỉ được chế trong ấm sành mới ngon, mới chất.
Những ngày trời lạnh, tôi vẫn thích nhất cái trò chơi của riêng mình đó là áp má vào chiếc bình sành còn ấm. Cái nỗi nhớ ấu thơ có lẽ được bắt đầu từ đó nên bây chừ cứ về quê là thèm “uống” nỗi nhớ nước chè xanh.
Theo NLĐ