Đề đốc Lê Trực lâm vào tình thế vô cùng nan giải, nhưng ông vẫn giữ một lòng trung nghĩa với vua Hàm Nghi. Ông rút sâu hơn vào rừng núi, vừa tìm cách bảo vệ nhà vua, lúc bấy giờ đang trú ở thượng nguồn sông Gianh, vừa chiêu mộ thêm nghĩa quân.
Lời lẽ trong thư của Lê Trực cũng khéo léo, lịch sự, trong đó ông cố ý tạo cho đại úy Mouteaux cái cảm tưởng ông đang chán nản, thất vọng để không tích cực truy tìm ông nữa.
Không lâu sau, khi biết được ngoài mặt tuy hòa hoãn mà bên trong Lê Trực vẫn sát cánh cùng Nguyễn Phạm Tuân trên chiến tuyến kháng Pháp, Mouteaux thông báo là y sẽ không duy trì tình thân hữu nữa mà sẽ sát hại vị Đề đốc Việt Nam khi có dịp đối đầu nhau. Tháng 2.1887, khi Mouteaux đưa quân ngược sông Gianh lập một đồn mới tại Minh Cầm thì hoạt động của cả hai lực lượng nghĩa quân dưới quyền Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân bắt đầu lâm vào tình thế khó khăn. Ngày 1.3 âm lịch, nhằm ngày 25.3.1887, Lê Trực gửi cho Mouteaux một bức thư có nội dung sau:
“…Tháng 12 năm rồi, khi ông viết thư cho tôi yêu cầu chấm dứt sự thù nghịch và giải tán lực lượng của tôi, tôi đã trả lời ông và cử đến Quảng Khê một phái viên mang theo quà biếu để chứng tỏ tấm lòng thành của tôi. Từ đó, tôi trải qua một đời sống yên bình trong vùng rừng núi Quảng Trạch và đã ra lệnh lập lại sự yên ổn giữa những người lương và giáo.
Bây giờ ông lại lập đồn mới (tức đồn Minh Cầm – LN) và lùng sục khắp vùng rừng sâu núi thẳm. Khi xây dựng đồn bốt này, ông đã làm cho dân chúng bất an, không phải vì họ hận thù các ông, mà vì các ông đã gieo mối nghi ngờ vào lòng họ: khi làm như thế, các ông đã đánh mất tăm tiếng là những người thận trọng và khôn ngoan. Chính vì thế, tôi yêu cầu ông hãy quay lại đồn cũ Quảng Khê, nơi một lần nữa tôi có thể chứng tỏ tình thân hữu với ông; tôi sẽ hết lòng vui mừng về điều này và cư dân trong vùng sẽ tìm thấy lại sự yên bình.” (L.Cadière – BAVH số 1 – 1944 – Sđd – trang 88 – 89).
Lời lẽ của bức thư cho thấy vị trí chiến lược của đồn Minh Cầm đã gây khó khăn rất nhiều cho các lực lượng nghĩa quân trong vùng. Nhận được thư Lê Trực, Mouteaux trả lời rằng y chỉ có thể khuyên vị Đề đốc hãy thực hiện đúng theo những gì mà bản tuyên cáo đã yêu cầu các lãnh tụ nghĩa quân (y gọi là những “lãnh tụ phản loạn”) phải làm là đầu hàng triều đình mới (của vua Đồng Khánh). Mọi việc diễn biến đúng với ý đồ của Mouteaux. Những cuộc thất trận nối tiếp nhau, bên cạnh đó, bệnh tật, đói rét giữa rừng sâu khiến nhiều nghĩa quân không chịu đựng nổi, họ ra hàng ngày càng nhiều, đến ngày 1.7.1887 con số này đã là 178 người.
Lê Trực lâm vào tình thế vô cùng nan giải, nhưng ông vẫn giữ một lòng trung nghĩa với vua Hàm Nghi. Ông rút sâu hơn vào rừng núi, vừa tìm cách bảo vệ nhà vua, lúc bấy giờ đang trú ở thượng nguồn sông Gianh, vừa chiêu mộ thêm nghĩa quân. Đầu tháng 11.1888, một biến cố lớn xảy ra: vua Hàm Nghi, linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp, rơi vào tay giặc do sự phản bội của một thủ hạ tâm phúc là Trương Quang Ngọc.
Được tin này, Lê Trực rơi vào tâm trạng tuyệt vọng. Lực lượng nghĩa quân dưới quyền ông từ 2.000 người buổi đầu, nay chỉ còn hơn 100 người. Để tránh cho họ sự đổ máu vô ích cùng sự trả thù tàn bạo của giặc Pháp, ngày 17.11.1888, ông dẫn họ ra hàng ở đồn Thuận Bài. Trong tác phẩm Le Laos et le protectorat français (Nước Lào và chế độ bảo hộ của Pháp), Ch.Gosselin viết rằng khi ra hàng, nghĩa quân của Lê Trực người nào cũng quần áo rách tả tơi, chứng tỏ họ đã trải qua những năm tháng cùng cực, nhưng tất cả đều giữ được tư cách xứng đáng của mình.
Riêng về Lê Trực, lời lẽ trong thư ra hàng đầy vẻ khảng khái, nước mất nhà tan, vua bị cầm tù, ông chỉ muốn quay về làng cũ sống yên bình cho đến cuối đời. Từ đó, những cây bút thực dân luôn nhắc đến Lê Trực với một lòng trân trọng hiếm thấy. Trong L’Empire d’Annam, Gosselin đã viết: “Đó là một kẻ đối nghịch thanh cao, lại thêm đức tính độ lượng, vì thế mà mọi người, dù là bạn hay thù, đều biểu lộ với ông một lòng yêu mến chân chính; không bao giờ ông thực hiện một hành vi tàn bạo, chỉ muốn thỏa mãn nhu cầu thực hiện lý tưởng mà ông đang phụng sự, ông hy sinh cả đời mình cho lòng trung thành với nhà vua và tiếp tục sống cuộc sống thật kham khổ giữa những người may mắn hơn ông rất nhiều…” (Sđd – trang 288).
Bọn thực dân từng đối đầu với ông còn dành cho ông những lời lẽ trang trọng như thế, trong khi đọc thấy những gì ghi lại trong sách Quốc triều chánh biên về thái độ của triều đình Huế đối với ông, người đọc sử không khỏi đau lòng.
Ông từ chối lời mời ra làm quan của Pháp, trở về làng quê Thanh Thủy sống đời bần hàn, chôn chặt trong lòng nỗi đau mất nước, cố quên kỷ niệm những năm tháng tung hoành trong rừng núi Quảng Bình. Dân trong vùng dành cho ông sự kính trọng chưa từng có; những viên chức lãnh đạo của Pháp tại Quảng Bình cũng thỉnh thoảng đến thăm ông, bày tỏ niềm ngưỡng phục đối với một kẻ cựu thù của họ…
(còn tiếp).
Theo Thanh niên