Lăng Vua Thiệu Trị (Xương Lăng)

22:05 | 26/09/2021

Lăng Thiệu Trị nằm ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành chừng 8km. Ở ngôi vua được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày 4-11-1847 (thọ 41 tuổi). Sinh thời, nhà vua chưa nghĩ đến cái chết của mình và không muốn binh, dân hao tổn quá nhiều sức lực và của cải, nên ông chưa xây cất sơn lăng.

Lăng Thiệu Trị (Xương Lăng) là nơi an nghỉ của vua Thiệu Trị (1807 – 1847) – vị vua thứ ba triều đại nhà Nguyễn. Toàn bộ công trình được thiết kế thành hai trục: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm (khu vực điện thờ) nằm bên trái.

Vừa lên kế vị, vua Tự Đức đã sai các thầy địa lý trong triều đình đi tìm đất xây lăng. Quá trình xây dựng Xương Lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút, chỉ sau 3 tháng thi công các công trình chủ yếu đã hoàn thành. Ngày 14-6-1848 vua Tự Đức lên Xương lăng kiểm tra lần cuối. 10 ngày sau, thi hài cua Thiệu Trị được đưa vào an táng trong lăng, sau 8 tháng quan trong điện Long An ở cung Bảo Định. Vua Tự Đức viết bài văn bia dài trên 2500 chữ, khắc trên tấm bia “Thánh Đức thần công”, dựng vào ngày 19-11-1848 để ca ngợi công đức của vua cha. Như vậy, từ ngày bắt đầu (11-2-1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng.

Trục tẩm có hồ Điện ở phía trước, một yếu tố phong thủy thường gặp trong các lăng mộ vua chúa nhà Nguyễn. Sau hồ Điện có một nghi môn bằng đá cẩm thạch được trang trí bằng pháp lam khá rực rỡ và sinh động.

Tổng thể kiến trúc của lăng Thiệu Trị là sự kết hợp và chọn lọc từ mô thức kiến trúc của lăng Gia Long và Minh Mạng. Xương lăng giống với Thiên thọ lăng (lăng Gia Long) ở chỗ không có la thành khu vực lăng mộ và tẩm điện biệt lập, song song với nhau. Xương lăng giống Hiếu lăng (lăng Minh Mạng) ở chỗ cách thức mai táng với việc xây dựng toại đạo (đường hầm đưa quan tài vào huyệt mộ) Bửu thành hình tròn với hồ Ngưng Thúy hình bán nguyệt bao bọc Bửu Thành, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng… Lăng gồm hai khu vực: lăng và tẩm. Phần lăng nằm ở bên phải, trước có hồ Nhuận Trạch thông với hồ Điện. Sau hồ Nhuận Trạch là nghi môn bằng đồng dẫn vào Bái đình rộng lớn. Hai hàng tượng đá ở hai bên tả hữu của sân là tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng nữa đầu thế kỷ XIX, ở Huế. Tiếp đến là Bi đình và lầu Đức Hinh tọa trên quả đồi cong dạng mai rùa. Hồ Ngưng Thúy như vầng trăng non án ngữ trước Bửu Thành. Bắc qua hồ có 3 cầu: Chánh Trung (giữa), Đông Hòa (phải), Tây Định (trái), nơi dẫn đến tam cấp vào Bửu thành – chô đặt thi hài vua. Phía phải của lăng có gác Hiển Quang – nơi nghỉ ngơi suy tưởng của vua ở cõi âm.

Sau nghi môn là các khoảng sân từ thấp đến cao, có bậc cấp dẫn lên nơi cao nhất là Hồng Trạch Môn.

Khu vực điện thờ được xây dựng riêng, cách lầu Đức Hinh 100m về phía trái. Qua Nghi môn bằng đá cẩm thạch, bước lên ba bậc tam cấp dẫn vào khu vực điện Biểu Đức – nơi thờ bài vị của vua và bà Từ Dũ. Trong chính điệ, trên những cỗ diểm ở bộ mái và ở cửa Hồng Trạch có khắc trên 450 ô chữ chạm khắc các bài thơ có giá trị văn học và giáo dục. Các công trình phụ thuộc như Tả, Hữu Phối điện (trước), Tả, Hữu Tùng viện (sau) quây quần xung quanh điện Biểu Đức càng tăng thêm vẻ tôn nghiêm của chính điện.

Hồng Trạch Môn là cánh cổng có dạng vọng lâu, kiến trúc mang nhiều nét tương đồng với Hiển Đức Môn ở lăng Minh Mạng và Khiêm Cung Môn ở lăng Tự Đức sau này.

Lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo, gần trước mặt lăng là cả một vùng đất bằng phẳng với cây cối xanh tươi và ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương tới tận cầu Lim. Vua Thiệu Trị nằm đó, yên giấc ngàn thu trong cảnh thanh bình của đồng quê và sự quây quần của quyến thuộc. Chếch về phía phải trước lăng có lăng Hiếu Đông của mẹ vua (bà Hồ Thị Hoa). Phía sau, bên trái là Xương Thọ lăng của bà Từ Dũ (vợ vua). Cách không xa về phía trước là khu lăng “tảo thương”, nơi có nhiều ngôi mộ của các con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ. Tất cả quây quần, đoàn tụ quanh đấy với vẻ đẹp giản đơn, gần gũi…

Một số chùm ảnh: Lăng Thiệu Trị – vẻ đẹp bị lãng quên

Sau Hồng Trạch Môn là điện Biểu Đức, công trình trung tâm của khu tẩm điện.
Điện Biểu Đức là nơi thờ cúng bài vị của vua Thiệu Trị và Hoàng hậu Từ Dụ.
Hai bên sân Bái Đình có hàng tượng đá tái hiện hình ảnh các quan văn võ, các loài vật dùng để cưỡi như ngựa, voi.
Đây được coi là những tác phẩm tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng đầu thế kỷ 19 ở Huế.
Từ sân Bái Đình có các bậc cấp dẫn lên Bi Đình (nhà bia), một công trình dạng phương đình, khá giống Bi Đình ở lăng Minh Mạng.
Trong Bi Đình là tấm bia “Thánh đức thần công” do chính tay vua Tự Đức viết để tri ân vua cha. Bia được dựng ngày 19/11/1848.
Công trình kế tiếp của trục lăng là lầu Đức Hinh, ngự trên một quả đồi thấp hình mai rùa. Ngày nay công trình đã sụp đổ, chỉ còn lại phần nền và bậc cấp. Theo các hình ảnh tư liệu xưa, lầu Đức Hinh mang dáng dấp như Minh Lâu ở lăng Minh Mạng.
Sau lầu Đức Hinh là hai vườn hoa nằm đối xứng hai bên, tương tự hai vườn hoa sau Minh Lâu ở lăng Minh Mạng. Kế tiếp là hồ Ngưng Thúy án ngữ trước tòa Bửu Thành, nơi đặt mộ vua.
Từ cổng Bửu Thành có thể nhìn toàn cảnh khu lăng với hai trụ biểu cao vút nổi bật ở hai bên lầu Đức Hinh.
Chếch về phía trước lăng vua Thiệu Trị còn có lăng Hiếu Đông của thân mẫu nhà vua, bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa.
Bên trái phía sau lăng vua là Xương Thọ Lăng của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu hay bà Từ Dụ, người vợ nổi tiếng của vua Thiệu Trị.
Giới nghiên cứu đánh giá, lăng Thiệu Trị là sự dung hòa hai mô thức kiến trúc của hai lăng vua được xây dựng trước đó là lăng Gia Long và lăng Minh Mạng.
Bên cạnh đó, lăng Thiệu Trị cũng giống lăng Minh Mạng ở cách thức mai táng và xây dựng toại đạo (đường hầm để đưa thi hài vua vào huyệt mộ), Bửu Thành hình tròn với hồ hình bán nguyệt bao bọc ở phía trước.
Trên phương diện phong thủy, lăng Thiệu Trị lại có nhiều nét gần gũi với lăng Gia Long, thể hiện ở việc sử dụng các ngọn núi tự nhiên và gò đất nhân tạo để làm bình phong, hậu chẩm. Ngoài ra, hai lăng còn giống nhau ở chỗ không xây La thành, khu vực lăng mộ và tẩm điện biệt lập, song song với nhau..
Dù có nhiều điểm tương đồng với lăng Gia Long và lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị vẫn những nét rất riêng, có thể coi là độc nhất vô nhị. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng không được dùng trong kiến trúc cung đình thời Nguyễn.
Nếu La thành của lăng Minh Mạng là tường gạch, lăng Gia Long là đồi núi bao quanh, thì La thành của lăng Thiệu Trị là những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh rờn. Chính vòng La thành đậm chất thôn quê này tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình.
Về lịch sử hình thành của lăng Thiệu Trị, theo sử cũ, sau khi ở trên ngai vàng được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh qua đời ngày 4/11/1847, khi mới ngoài 40 tuổi. Trong lúc hấp hối, nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi về việc xây lăng của mình.
Vua căn dặn rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”.
Vua Tự Đức lên nối ngôi đã lệnh cho các thầy địa lý tìm đất để xây lăng cho vua cha. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy. Sau đó núi ấy được cải tên là núi Thuận Đạo còn lăng được gọi là Xương Lăng
Theo lời dặn của vua cha, vua Tự Đức căn dặn các đại thần phải bắt chước cách làm toại đạo giống lăng Minh Mạng, công việc xây dựng các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như điện, đình, các, viện… thì phải theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm.
Tính từ ngày bắt đầu xây dựng (11/2/1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng.
Ngày 14/6/1848, vua Tự Đức thân hành lên Xương Lăng kiểm tra lần cuối. Mười ngày sau, thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào an táng trong lăng sau 8 tháng quàn tại điện Long An ở cung Bảo Định.
Sau nhiều thăng trầm của lịch sử, ngày nay lăng Thiệu Trị đã xuống rất cấp nặng nề. Hiện trạng này khiến lăng không được nhiều du khách ghé thăm như lăng các vị vua Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định.
Với một dự án trùng tu lớn đã được phê duyệt, hi vọng lăng mộ vua Triệu Trị sẽ được khôi phục tầm vóc vốn có trong thời gian không xa.

 

 

Minh Quang (T/h)

 

 

 

 

 

 

 

Video hay


Cùng chuyên mục

Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống MTTQ Việt Nam (18/11/1930 – 18/11/2024):  GẶP GỠ Ở ĐẠI THẠNH

Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống MTTQ Việt Nam (18/11/1930 – 18/11/2024): GẶP GỠ Ở ĐẠI THẠNH

Hà Tĩnh: Nhiều dấu hiệu sai phạm tại di tích văn hóa Truông Bát

Hà Tĩnh: Nhiều dấu hiệu sai phạm tại di tích văn hóa Truông Bát

Chi cục Thuế quận Bình Tân tuyên dương người nộp thuế chấp hành tốt chính sách, pháp luật thuế năm 2023

Chi cục Thuế quận Bình Tân tuyên dương người nộp thuế chấp hành tốt chính sách, pháp luật thuế năm 2023

Lễ khởi công xây nhà tình nghĩa và tặng quà cho các em học sinh dân tộc Bru – Vân Kiều

Lễ khởi công xây nhà tình nghĩa và tặng quà cho các em học sinh dân tộc Bru – Vân Kiều

Văn hiến Việt Nam xây nhà tình nghĩa cho bà con dân tộc Bru – Vân Kiều

Văn hiến Việt Nam xây nhà tình nghĩa cho bà con dân tộc Bru – Vân Kiều

Khai mạc Ngày hội Văn hoá, Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc tại Lạng Sơn lần thứ XI

Khai mạc Ngày hội Văn hoá, Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc tại Lạng Sơn lần thứ XI

Tia laser hé lộ thành phố bí mật của người Maya 3.000 năm tuổi với hơn 6.500 công trình

Tia laser hé lộ thành phố bí mật của người Maya 3.000 năm tuổi với hơn 6.500 công trình

Festival Ninh Bình lần thứ III – Tái hiện Dòng chảy Di sản lịch sử dân tộc

Festival Ninh Bình lần thứ III – Tái hiện Dòng chảy Di sản lịch sử dân tộc

Khai mạc Hội thao – Hội thi Công an nhân dân Cụm số IV do Bộ Công an tổ chức tại tỉnh Thừa Thiên Huế 

Khai mạc Hội thao – Hội thi Công an nhân dân Cụm số IV do Bộ Công an tổ chức tại tỉnh Thừa Thiên Huế