Trên miền sơn nguyên – Tây Nguyên – này, nếu nói nam giới không biết săn bắn thú rừng thì thể nào cũng nhận được sự phản ứng theo phép xã giao của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa nơi đây kiểu: “… không biết tí ti gì về người bản địa Tây Nguyên!”. Nhưng nếu bảo kỹ năng săn bắn của đàn ông Sedang – một dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên, thuộc hàng giỏi nhất, gần như ai ai cũng đồng ý. Cứ nhìn chiếc klec – gùi dành riêng cho nam giới của người Sedang, sẽ rõ.

Núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, nơi có phong tục đi săn lâu đời của người Sedang
Tự tên gọi klec – biến âm của klec là kchoi hoặc k’chui – đã nói lên đặc tính chuyên dụng cao độ của nó – loại gùi chỉ sử dụng cho một công việc duy nhất: săn bắn. Klec gồm 3 ngăn, 1 ngăn ở giữa và 2 ngăn ở 2 bên trái – phải, cùng 2 dây quàng qua 2 vai người sử dụng. Trong lúc sử dụng, klec ôm khít lưng người, làm một với người sử dụng trong từng động tác di chuyển len lách giữa những tàng cây rừng rậm rạp truy đuổi con thú đang nhanh chân tẩu thoát. Một cường độ di chuyển cao như vậy, lại thay đổi hướng di chuyển đột ngột và liên tục, trong một không gian chằng chịt những dây dợ, klec quá lý tưởng bởi sự cơ động để phản ứng tức thì mà không cần phải nghĩ hay lo sợ các cành cây rừng sẽ ‘cướp’ mất nó từ vai người sử dụng hoặc klec sẽ cản trở thợ săn truy bắt thú rừng vì va vướng những nhánh cây trên đường truy đuổi con thú của thợ săn. Klec còn có một công năng chuyên dụng khác: dùng để đựng mũi tên.

Mặt bên trong của kle
Trong 3 ngăn của klec, ngăn ở giữa được nghệ nhân đan to và cao gấp đôi 2 ngăn ở 2 bên trái – phải. Ngăn này thường để đựng xà-gạc, bật lửa, con dao và nắm cơm… Nó cũng là ngăn sẽ đựng những con thú săn được mang về nhà. 2 ngăn còn lại, 1 ngăn dành riêng để chứa những mũi tên đã tẩm độc, 1 ngăn thì dùng vào việc cất giữ các vật dụng cần kíp khác trong một chuyến đi săn. 3 ngăn, mỗi ngăn một công năng riêng đã nói lên sự khu biệt của klec với những chiếc gùi khác. Nó đòi hỏi một kỹ thuật đan nống đôi lão luyện, cùng sự khéo léo trong kết nối các bộ phận của klec, bên cạnh sự tinh tế trên mỗi đường đan cài từng sợi mây. Vì thế, không phải ai cũng đan được klec. Người đan klec, yếu tố tiên quyết phải có là tính cách tỉ mỉ, thứ nữa phải có thêm đó là đức nhẫn nại, sự chỉnh chu trong từng công đoạn, từ khâu chọn cây mây đủ tuổi đến khâu chẻ sợi mây, từ việc nắm bắt nhịp điệu lách tách của con dao khuyết nhẵn chuốt những sợi mây đến khả năng ‘nghe’ ra độ mềm của sợi mây đã đến lúc đan klec, từ cách tạo hoa văn đến cách phối kết các họa tiết… Tất cả những công đoạn ấy, đều được nghệ nhân Sedang lập sẵn trong tâm trí. Bằng những ngón tay chai sạn, bằng những nhịp ve từng nan mây điệu nghệ, nghệ nhân Sedang đã đan nên một thế giới quan, từ một nhân sinh quan thấm đẫm các câu chuyện kể, những cổ mẫu văn hóa, những khát vọng của người dân Sedang. Klec vì vậy không chỉ là đồ đan lát thủ công, còn là một tác phẩm nghệ thuật, kể những câu chuyện về văn hóa Tây Nguyên. Nghệ nhân Sedang hiểu rằng, ẩn đằng sau mỗi chiếc klec là cả một nền văn hóa. Trong klec có cái nắng của Tây Nguyên. Trong klec có giọt mồ hôi của nghệ nhân. Trong klec có nhịp đập thầm lặng của đời sống lao động. Trong klec có kinh nghiệm của việc săn bắn.

Mặt bên ngoài của klec
Săn bắn thú rừng giờ đây đã không còn là lựa chọn sống của người Sedang. Nghiễm nhiên công năng sử dụng của klec cũng phải khác trước kia – dùng cho việc săn bắn. Nó đã trở thành chất liệu cho nghệ thuật sắp đặt, truyền cảm hứng cho nhiều nhà thiết kế thời trang đưa chất liệu dân gian vào các bộ sưu tập của mình, nằm trong những bộ sưu tập hiện vật văn hóa Tây Nguyên của các nhà sưu tập, các bảo tàng tư nhân và các bảo tàng công lập… Nhịp chuyển của klec trong đời sống đương đại chính là nhịp chuyển của văn hóa Tây Nguyên. Nó là nhịp đập bền bỉ, trầm lặng nhưng đầy kiêu hãnh, được gìn giữ bởi đôi tay chai sạn của người đàn ông Sedang.
TRỊNH CHU





