Kéo dài gần 5 năm, với vô số phiên họp công khai và họp riêng cấp cao, sau những đấu trí vô cùng cam go trên bàn đàm phán bất kể ngày đêm, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về Việt Nam mới được ký kết.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, Hiệp định Paris chính là mốc son thắng lợi của sức mạnh tổng hợp trên cả ba chiến trường ngoại giao, quân sự và chính trị dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đường tới bàn đàm phán
Hội nghị Paris về Việt Nam chính thức được khởi động với phiên họp đầu tiên vào sáng ngày 13/5/1968 tại Trung tâm Hội nghị quốc tế trên đại lộ Klébe, Paris trên tư cách là Hội nghị hai bên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và đại diện chính quyền Mỹ.
Tuy nhiên, trước đó nhiều năm, những “tiền đề” cho Hội nghị đã được manh nha khi Trung ương Đảng và Bác Hồ chủ trương đẩy mạnh mặt trận ngoại giao, kết hợp vừa đánh vừa đàm để chuyển sang giai đoạn mới của cuộc chiến. Tháng 12/1965, Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 12, trong đó chỉ rõ “đánh đến một lúc nào đó sẽ vừa đánh vừa đàm” tuy nhiên, rất sáng suốt nhận định “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp”.
Tháng 1/1967, sau những thắng lợi vang dội của quân và dân hai miền Nam Bắc tạo thế cho ta, Hội nghị Trung ương 13 đã quyết định mở mặt trận ngoại giao để tạo cục diện đánh đàm và kéo Mỹ xuống thang chiến tranh. Dù vậy, phía ta luôn nhất quán quan điểm, Hà Nội sẵn sàng nói chuyện với Washington nhưng có điều kiện, chứ không phải như Hoa Kỳ đòi hỏi là “đàm phán không điều kiện”.
Như ngày 15/2/1967, trong bức thư gửi trả lời Tổng thống Hoa Kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chính phủ Mỹ đã gây ra chiến tranh xâm lược Việt Nam thì con đường đưa đến hòa bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt xâm lược… Nếu Chính phủ Mỹ thật muốn nói chuyện thì trước hết Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Về phía Mỹ, một số nhân vật cấp cao trong đó có McNamara cũng sớm nghĩ tới việc Mỹ nên đi vào đàm phán và rút khỏi cuộc chiến này.
Cuối năm 1967, quân dân ta thắng lớn ở miền Nam; trên thế giới phong trào đoàn kết với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam ngày càng được mở rộng và ở Mỹ, cuộc bầu cử Tổng thống đang đến hồi kết… Đặc biệt, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đồng thời sức ép của dư luận quốc tế buộc Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson phải cam kết xuống thang chiến tranh… Sau đợt 1 Tết Mậu Thân, ngày 31/3/1968, Johnson đã đơn phương tuyên bố hạn chế hoạt động ném bom phá hoại miền Bắc Việt Nam và chính thức gợi ý về một giải pháp ngoại giao, đàm phán với Chính phủ VNDCCH.
Ngày 2/5/1968, Việt Nam đề nghị lấy Paris làm địa điểm họp chính thức giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đồng thời cử Bộ trưởng Xuân Thủy làm Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ VNDCCH tại cuộc đàm phán và đề nghị phiên họp đầu tiên tổ chức vào ngày 10/5 hoặc vài ngày sau đó. Hoa Kỳ đã chấp nhận đề nghị và cử Averell Harriman – một nhà ngoại giao nổi tiếng của Mỹ làm Trưởng đoàn. Ngày 3/6/1968, nhà ngoại giao Lê Đức Thọ đã tới Paris tham gia đàm phán trực tiếp với tư cách là Cố vấn đặc biệt của đoàn đại biểu Chính phủ VNDCCH.
Lễ khai mạc cuộc nói chuyện chính thức giữa đại diện Chính phủ VNDCCH và đại diện Chính phủ Mỹ tại Paris ngày 13/5/1968. Ảnh: TTXVN
Sáng ngày 13/5/1968, cuộc đàm phán Paris về vấn đề Việt Nam chính thức được khởi động. Ngày 17/6/1968, hai bên bắt đầu có những cuộc gặp nhau ở cấp đoàn viên và từ ngày 27/6/1968 là ở cấp phó trưởng đoàn…
Cuộc đấu tranh ngoại giao dai dẳng nhất, cam go nhất
Để có được một Hội nghị Paris khai cuộc ngày 13/5/1968 đã là khó khăn không hề nhỏ, nhưng để có một Hội nghị Paris kết thúc với kết quả đúng như phía ta mong muốn lại còn khó khăn gấp bội. Thậm chí, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, có lẽ chưa có cuộc đàm phán nào kéo dài và cam go như Hội nghị Paris: Tới gần 5 năm, chính xác là 4 năm, 8 tháng, 14 ngày với vô vàn những giằng co, đấu trí, đấu lý căng thẳng, quyết liệt, kiên trì, bền bỉ đeo đuổi nhau từng chút một giữa ta và Mỹ.
Thế giằng co này “bật” lên ngay từ những ngày đầu Hội nghị. Chỉ riêng những tranh luận gay gắt về thành phần tham gia “4 bên hay 2 bên” cũng đã mất nhiều tháng. Ban đầu, Hội nghị Paris là hội nghị hai bên giữa phái đoàn VNDCCH và Mỹ. Tuy nhiên, phía Mỹ khăng khăng cho rằng cần có sự tham gia của phái đoàn Chính phủ Sài Gòn.
Phía VNDCCH phản đối những đòi hỏi đó và đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) tham gia hội đàm bởi miền Bắc không thể đại diện cho miền Nam mà phải có mặt của đoàn miền Nam. Bởi lập trường cương quyết của Chính phủ VNDCCH, phía Mỹ buộc phải chấp nhận ngồi cùng bàn đàm phán với MTDTGPMNVN và từ tháng 6/1969, là Chính phủ CMLTMNVN.
Mãi đến tháng 1/1969, nghĩa là mất tới 6 tháng, sau những tranh cãi gay gắt và bất đồng về quan điểm, lập trường hai bên mới đi đến thống nhất về thành phần tham dự hội nghị, gồm bốn đoàn: VNDCCH, MTDTGPMNVN, Mỹ và VNCH và phiên họp toàn thể đầu tiên được tổ chức vào ngày 25/1, sau phiên họp trù bị vào 18/1.
Ngày 18/1/1969, tại Trung tâm hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp) diễn ra phiên họp đầu tiên của hội nghị 4 bên về Việt Nam, gồm 4 đoàn đại biểu: Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa kỳ và chính quyền Sài Gòn. Ảnh: Văn Lượng/TTXVN.
Nhưng chừng ấy mới chỉ là một bất đồng trong vô số những bất đồng mà 4 bên – thực chất là 2 phía tham dự Hội nghị Paris phải tìm hướng để có thể đạt được điểm chung. Từ họp phiên đầu tiên đến khi đạt được dự thảo Hiệp định Paris về Việt Nam (10/1972), rồi được ký kết tháng 1/1973, Hội nghị Paris về Việt Nam trải qua hơn 200 phiên họp chung công khai và hàng chục cuộc tiếp xúc riêng.
Lập trường, mục đích, đòi hỏi và cả giải pháp đưa ra giữa hai bên Việt Nam và Mỹ rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, thậm chí đối lập nhau “như nước với lửa” khiến cho cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn thương lượng. Cuộc đấu trí, đấu bản lĩnh quyết liệt giữa nền ngoại giao non trẻ với nền ngoại giao lão luyện của một siêu cường hàng đầu thế giới diễn ra vô cùng cam go, dai dẳng, với những bám đuổi quyết liệt.
“Các cuộc chiến tranh khác thì dừng đánh để đàm phán nhưng ở đây là vừa đàm vừa đánh”, nhà báo Lý Văn Sáu – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh Truyền hình Việt Nam, Phó TBT Đài TNVN cho biết.
Theo ông Nguyễn Khắc Huỳnh – Nguyên Đại sứ, thành viên đoàn Việt Nam DCCH tại cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, đàm phán Paris là lâu dài và gian khổ bởi nó phụ thuộc vào tình hình chiến trường, quân đội ta ở miền Nam có thắng được Mỹ thì bàn đàm phán mới yên được. Bản thân cuộc đàm phán là một cuộc đấu trí. Vừa đấu trí vừa đấu chiến lược, đấu chiến thuật, đấu bản lĩnh và đấu mưu. Ta kiên trì đấu tranh trong đàm phán để đạt mục tiêu cao nhất là Mỹ chấp nhận rút và chấm dứt chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.
Cũng nhờ tinh thần “vừa đàm vừa đánh”, những diễn biến trên chiến trường thực sự đã tác động đến thế cục trên bàn đàm phán, tình hình bắt đầu có bước chuyển từ đầu năm 1972, nhất là sau khi cuối tháng 3/1972 ta thực hiện cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn đánh vào các hướng trọng điểm là Quảng Trị, Thừa Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, làm lung lay chính quyền Sài Gòn, ngày 2/5/1972, ở Paris, cuộc họp giữa Kissinger và Bộ trưởng Xuân Thủy cùng cố vấn Lê Đức Thọ được tái lập.
Như hồi ức của bà Nguyễn Thị Bình – nguyên Trưởng Phái đoàn MTDTGPMN VN thì đàm phán Paris kéo dài trong gần 5 năm, thì trong ba năm đầu, từ 1969 đến 1971, luôn có sự giằng co giữa ta và địch. “Cuộc chiến đấu không dùng súng đạn mà bằng đấu trí, đấu lý, nhưng cũng vô cùng khó khăn, nhất là những cuộc đàm phán bí mật. Động lực chính giúp chúng tôi kiên trì đấu tranh và hoạt động tích cực, đó là vì lợi ích tối cao của dân tộc, là niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến của nhân dân ta”, bà Bình cho biết.
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định Paris về Việt Nam, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp). Ảnh: Văn Lượng/TTXVN.
Những năm tháng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ Chính trị từng ngày, từng giờ theo dõi và chỉ đạo những sự kiện liên quan đến Hội nghị Paris. Luôn theo sát tình hình, tháng 5/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã chỉ thị cho đồng chí Xuân Thủy – Trưởng đoàn đám phán Paris khi về nước báo cáo tình hình, đồng thời Người căn dặn: “Tiến công ngoại giao là một mặt tiến công quan trọng có ý nghĩa chiến lược lúc này…; nắm vững thời cơ, phối hợp với tiến công quân sự và tiến công chính trị, tiến công liên tục và sắc bén, kiên trì nguyên tắc, khéo vận dụng sách lược, vừa kiên quyết, vừa linh hoạt, buộc Mỹ phải rút quân và nhận một giải pháp chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta”.
Những tháng ngày sau đó, ta đã vận dụng linh hoạt sách lược “vừa đánh vừa đàm”, kết hợp đàm phán với vận động dư luận thế giới và phối hợp với chiến trường để từng bước củng cố thế trận đàm phán. Theo các nhà nghiên cứu, ngoại giao Việt Nam đã vận dụng và kết hợp ba nhân tố: chiến trường, hậu phương quốc tế và đàm phán trực tiếp với Mỹ, để không chỉ cải thiện so sánh lực lượng, mà còn tạo chuyển biến có lợi cho cuộc đàm phán tại Paris.
Và bước ngoặt của đàm phán Paris là việc ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đã đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” với những điều khoản cụ thể, trong đó, yêu cầu Mỹ rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam, chấp nhận một giải pháp kết thúc chiến tranh. Ngày 17/10/1972, văn kiện Hiệp định được hoàn tất và hai bên đã thỏa thuận đến ngày 31/10/1972 đã ký chính thức. Tuy nhiên, đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo.
Ngày 13/12/1972, khi quan điểm tiếp tục bất đồng và VNCH cương quyết không ngồi vào bàn thương lượng, cuộc đàm phán lại tạm dừng. Ngay sau đó, Tổng thống Nixon gửi tối hậu thư, yêu cầu Hà Nội trở lại đàm phán trong vòng 72 giờ để ký theo phương án Hoa Kỳ đề nghị nhưng phía ta từ chối. Ngày 15/12/1972, cố vấn Lê Đức Thọ lên đường về nước.
Phản ứng lại sự từ chối dứt khoát của phía ta, chỉ 5 ngày sau khi đàm phán tạm ngừng, đêm 18/12/1972, Tổng thống Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng và các địa phương lân cận bằng máy bay F-111 và “pháo đài bay” B-52 với mục tiêu “phải đánh, đánh ác liệt, nếu không coi như không làm gì cả. Dùng đòn mạnh nhất để thúc đẩy thương lượng”. Tuy nhiên, dã tâm của Nixon đã thất bại thảm hại. Quân dân Việt Nam đã làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” khi khiến 81 máy bay các loại gồm 34 “pháo đài bay B52”, 5 chiếc F-111 và 42 máy bay chiến đấu khác của Mỹ nổ tung ngay trên bầu trời Hà Nội.
Không những thế, cuộc tập kích tàn bạo chủ yếu bằng B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội đã vấp phải làn sóng đấu tranh, lên án phản đối kịch liệt của dư luận ở cả Việt Nam, Mỹ và trên thế giới. Thất bại của Mỹ trên chiến trường đã quyết định thất bại của chúng trên bàn thương lượng. Đứng trên tư thế người chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ nội dung cơ bản của dự thảo Hiệp định đã được thỏa thuận.
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris, hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, được ký kết tại Paris (Pháp). Nội dung Hiệp định ghi rõ: – Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân các nước thân Mỹ, phá hết các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; Các bên để nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do…
Hiệp định Paris được sự công nhận và bảo đảm của một hội nghị quốc tế về Việt Nam, thông qua Ðịnh ước quốc tế, ký ngày 2/3/1973 cũng tại Paris. Ngày 28/1/1973, ngừng bắn trên toàn miền Nam. Ngày 29/3/1973, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi miền Nam Việt Nam.
Việc ký hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại giao dài nhất, khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam ở thế kỷ 20, đánh dấu thắng lợi lịch sử của nhân dân Việt Nam sau hơn 19 năm đấu tranh kiên cường trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao chống Mỹ xâm lược. Đó cũng là thắng lợi quyết định tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc vào ngày 30/4/1975.
Đúng như lời bà Nguyễn Thị Bình – Nguyên trưởng đoàn đàm phán Chính phủ CMLTCHMNVN: Trên hết là đánh giá công lao của các chiến sỹ và đồng bào suốt 20 năm đấu tranh. Bao nhiêu người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống. Chúng ta hiểu rằng nếu không có Tết Mậu Thân năm 1968, không có cuộc giải phóng tỉnh Quảng Trị và cuộc chiến đấu 81 ngày đêm tại Thành cổ, không có trận Điện Biên Phủ trên không cũng như không có hậu phương vững chắc là miền Bắc thì không có Hiệp định Paris. Và đương nhiên không có Hiệp định Paris thì không có đại thắng Mùa xuân 1975.
Anh Thư
Nguồn Báo Công luận
https://www.congluan.vn/moc-son-thang-loi-tren-ba-mat-tran-chinh-tri-quan-su-va-ngoai-giao-post229849.html