Những năm 74-75, sân trường đại học sư phạm 1 HN nơi Cầu Giấy ngập tràn màu áo lính. Những người lính chúng tôi sau khi hoàn thành sứ mệnh được trở về trường cũ học tập. Bạn học của chúng tôi là những đồng đội đã cùng lên đường, cùng chiến đấu nhiều ngày tháng ở mặt trận, và cũng có rất nhiều những “Nam thanh Nữ tú” mới tốt nghiệp phổ thông được tuyển về học.
Các em nữ thì xinh tươi, còn các em nam có phần nhút nhát, bẽn lẽn hơn. Nhưng cũng có nhiều em sớm ánh lên những tia sáng của tài năng (đương nhiên đây là tài năng văn chương, vì chúng tôi học khoa ngữ văn). Lớp trẻ này, tôi chú ý nhiều tới Bùi Thế Đức- Em học cùng lớp với tôi, học rất chăm chỉ và lễ phép, rồi Bùi Mạnh Nhị, Nguyễn Chí Bền, Nguyễn Đức Quang, Trần Hòa Bình (Bùi Thế Đức quê Hà Tây, sau là Phó Ban Tuyên giáo TW, Nguyễn Đức Quang là Tổng biên tập Báo Thiếu niên tiền phong, Trần Hòa Bình, Nguyễn Chí Bền, Bùi Mạnh Nhị học trên chúng tôi một lớp, sau Bình là một nhà thơ nổi tiếng, một giảng viên đại học báo chí, Nguyễn Chí Bền là Viện trưởng Viện Văn hóa, Bùi Mạnh Nhị là Tiến sỹ khoa học, Hiệu trưởng Trường ĐHSP TPHCM, Vụ trưởng Vụ Tổ chức Bộ GD và ĐT, Chánh văn phòng Hội đồng Giáo sư Nhà nước).
Bởi yêu thơ ca, nên những ngày ấy chiều chiều tôi hay ngồi trà lá với Bùi Mạnh Nhị ở quán nước ông Định trong lòng sân trường. Điếu thuốc, chén trà nóng, chiếc kẹo dồi…và những câu chuyện thi ca bất tận. Nhị quê Vụ Bản Nam Định, hiền lành, nhã nhặn, mùa đông giá lạnh hay mặc một chiếc áo bông xanh bạc màu. Anh có hai tình yêu mãnh liệt: Tình yêu thi ca và Tình yêu với em Quỳnh Nga học cùng lớp. Tôi được đọc những bài thơ đầu của Nhị, thấy hay hay, thích thích, rất muốn giới thiệu để những bài thơ ấy có thể in báo (Ngày ấy có một bài thơ in báo là xiết bao khó khăn. Nhiều người chỉ cần được in một bài thơ là mặc nhiên được coi là thi sỹ- một danh xưng rất oai, rất giá trị lúc ấy, và kể như đã có tiếng nói trên thi đàn).
Cũng nói thật ngày ấy, tôi quen biết khá nhiều các anh phụ trách biên tập các báo, có thể cậy nhờ các anh in thơ cho bạn bè, như anh Trung Đông báo Nhân Dân, anh Phạm Tiến Duật báo Văn nghệ, anh Trần Hữu Tòng báo Quân đội, cậu Phạm ngọc Cảnh tạp chí VNQĐ…Nhưng vân vi nghĩ giới thiệu Nhị với nhà thơ Hoài Anh là thích hợp hơn cả. Nhà thơ Hoài Anh ngày ấy có tên tuổi, lại là biên tập thơ của tập Sáng tác Hà nội, nơi quy tụ rất nhiều tiếng nói thơ trẻ Hà Nội. Anh lại cùng quê Nam Định với Bùi Mạnh Nhị, rất sẵn nhiệt tình với thế hệ trẻ, có thể ngồi tâm tình đàm đạo về thơ ca thâu đêm suốt sáng để giúp đỡ các em…
Thế là một chiều tôi chở Nhị tới nhà anh Hoài Anh ở phố Hàng Bồ. Hai anh em Nam Định gặp nhau, anh Hoài Anh yêu quý Nhị ngay, và từ đấy thân thiết như hai anh em ruột thịt. (Sau này khi chuyển vào Sài gòn, có thời gian vợ chồng Nhị cưu mang anh Hoài Anh hàng tháng trời khi anh trục trặc về gia đình). Điều mà Bùi Manh Nhị luôn dành được tình cảm ở mọi người, tất nhiên bên cạnh một tài năng văn chương sớm bộc lộ ( 20 tuổi Nhị được giải thưởng thơ của Hội Văn nghệ Hà nội. Và sau đó vào TPHCM, anh tiếp tục đoạt Giải 3 Hội Văn học nghệ thuật Tp HCM năm 1980), chính là từ cái Đức của anh. Từ các thầy cô giáo đến bạn học, đến các văn nghệ sỹ…đều yêu quý Bùi Mạnh Nhị ở sự chân tình, mộc mạc và đằm thắm . Sau này lên những vị trí rất cao, anh vẫn như ngày nào luôn trân trọng, yêu thương, chân thành với mọi người như vậy…
Bùi Mạnh Nhị học trên tôi một lớp, dù anh ít tuổi hơn, và cũng tốt nghiệp trước chúng tôi một năm. Đây cũng là những năm đầu mới giải phóng, những giáo sư , thầy giáo, những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc của khoa ngữ văn ĐHSP HN được tăng cường cho đại học sư phạm TPHCM mới được thành lập.”Hành phương Nam. Bùi Mạnh Nhị được chọn lên đường buổi đầu tiên ấy, và trở thành một giảng viên rất trẻ của Đại học sư phạm TPHCM. Anh bước lên bục giảng, cùng những người thầy rất xuất sắc của chúng tôi như Lê Trí Viễn, Trần Thanh Đạm, Nguyễn Tấn Phát, Hồ Văn Nho, Lâm Vinh, Hồ Sỹ Hiệp, Trần Xuân Đề, Lê Ngọc Trà, Trần Hữu Tá, Phùng Quý Nhâm…góp phần đào tạo những người thầy XHCN của một miền Nam mới. Chính trên giảng đường này, anh từng bước trưởng thành, trở thành phó Giáo sư, Tiến sỹ khoa học, phó Chủ nhiệm, Chủ nhiệm Khoa ngữ văn, rồi Hiệu trưởng Trường ĐH SP TPHCM, và sau đó được đưa ra Hà nội trở thành Vụ trưởng Vụ Tổ chức của Bộ. Nhiều thế hệ sinh viên ĐHSP, nhiều thế hệ giáo viên luôn trân trọng yêu quý người thầy đức độ, nhiệt huyết, có kiến thức rất sâu rộng và có trái tim ấm áp, nhân ái, nhân văn. Học sinh của anh sau này đảm nhận nhiều cương vị trong xã hội, nhưng bao giờ cũng nhất mực trân trọng, yêu quý và biết ơn mỗi khi nhắc đến thầy Bùi Mạnh Nhị…
Bởi theo tiếng gọi của văn chương, nên tôi không đi làm thầy, nhưng tình cảm với bạn học Đại học sư phạm luôn tràn đầy, với những Lê Huy Hòa, Bùi Thế Đức, Trần Đăng Suyền, Trần thị Trâm, Vũ bình Lục, Đinh Lan Phương, Bạch Văn Hợp, Đặng Quang Quỳnh, Bùi Tất Tươm, Nguyễn Kim Hồng, Cao xuân Sơn, Bùi Mạnh Nhị…Những kỷ niệm về buổi đầu thi ca của Nhị, của Sơn, của Trần Hòa Bình, Nguyễn Đức Quang, Dân Thanh Đào Hóa, rồi thầy tổ chức Phạm Văn Thanh…không bao giờ phai nhòa trong tôi. Dù không cùng nơi công tác, nhưng tôi vẫn lặng thầm dõi theo từng bước chân thi ca của các anh, mừng với mỗi sáng tác mới của các anh, và tất nhiên mừng hơn là sự trưởng thành của các anh trong nghề nghiệp, trong sự nghiệp. Trong lớp trẻ này, Bùi Thế Đức và Bùi Mạnh Nhị là thành đạt hơn cả. Nhưng tôi vẫn nghiêng tình cảm với Nhị nhiều hơn, vì ngoài là một nhà Giáo dục, một nhà quản lý xuất sắc, anh vẫn là một nhà thơ với đậm đà chất nghệ sỹ trong tâm hồn. Phải nói thật, những công trình nghiên cứu, những bài lý luận phê bình Nhị viết rất hay. Vừa có tầm, vừa có tâm, vừa uyên bác, mở ra nhiều điều mới lạ mà gần như chỉ anh mới có, với một vốn kiến thức đồ sộ, một thái độ làm việc nghiêm túc, khoa học, cầu thị, một tâm hồn rộng mở…
Hãy điểm qua những công trình khoa học ấy của anh: Sen Tháp Mười – Phương ngôn Việt Nam – Một số đặc điểm nghệ thuật của ca dao – dân ca Nam Bộ – Nỗi oan hại chồng trong vở chèo Quan Âm Thị Kính – Dân ca của miền đất phương Nam Tổ quốc – Suy nghĩ về việc sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian ở đồng bằng sông Cửu Long – Đặc điểm ngôn ngữ ca dao – dân ca Nam Bộ – Truyện Trạng Ba Phi – một hiện tượng văn học dân gian độc đáo- Tiếp cận văn học dân gian địa phương từ đặc trưng của văn học dân gian – Thơ văn Đồng Tháp. Anh là Chủ biên: Văn học dân gian những công trình nghiên cứu(Nxb Giáo dục xuất bản năm 1999, tái bản lần 6 năm 201, là Chủ biên, Văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục, 1999, tái bản lần 5 năm 2012, Ca dao dân ca Nam Bộ (sưu tầm, biên soạn, giới thiệu chung), Nxb Tp Hồ Chí Minh năm 1998 rồi Truyện cười dân gian Nam Bộ (Sưu tầm, biên soạn chung), Nxb Tp Hồ Chí Minh năm 1999. Anh cũn là tác giả của tập sách Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Nxb Giáo dục Việt Nam, năm 2012, tác giả sách giáo khoa môn Ngữ văn lớp 6, 7, lớp 10 nâng cao, từ năm 2006 đến nay…
Cũng phãi nói thêm rằng, nhiều công trình của anh đã được đánh giá cao cả trong và ngoài nước. GS. Nikulin, một giáo sư rất nổi tiếng của Viện Văn học thế giới, Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga, cũng là người phản biện luận án Tiến sĩ (năm 1992) và luận án tiến sĩ khoa học (1995) của Bùi Mạnh Nhị. Ông đã đánh giá rất cao tài năng của TS người Việt Nam Bùi Mạnh Nhị, TS Hoàng Văn Cẩn và có bài viết có bài viết rất hay “Hai ngày Việt Nam tại Kinh thành Xanh Pêtcbua” về Bùi Mạnh Nhị và Hoàng Văn Cẩn.
Với tôi, nói thật tôi đặc biệt yêu thích những những chân dung anh viết, về nhà thơ Tố Hữu, nhà thơ Nguyễn Bính quê hương Nam Định của anh, về những người thầy như Lê Trí Viễn, Hoàng Như Mai, Trần Văn Nhung…đọc thích, giàu xúc cảm, thấy yêu hơn các Thầy, và cũng yêu hơn người viết chính là Bùi Mạnh Nhị .
Nhưng trước hết với cuộc đời này, với thế hệ trẻ, anh là một nhà giáo, với sự nghiệp chính là sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp làm Thầy.”Hành phương Nam” của anh chính là bài ca, bài thơ người thầy trên bục giảng. Thật xúc động khi nhiều thế hệ học sinh ngưỡng mộ gọi anh là“ Người thắp lửa cho những giấc mơ tận hiến trong nghiệp trồng người suốt nhiều thập niên” Tôi được đọc những dòng này của thế hệ học sinh miền Nam viết về anh rất xúc động: “Văn học là nhân học. Hằn in trong ký ức của nhiều thế hệ học trò, thầy Bùi Mạnh Nhị ở vị trí nào cũng toát lên phong thái của một trí thức lớn, một nhà sư phạm chỉnh chu nhưng uyên bác. Trách nhiệm công dân, trách nhiệm với đất nước để đào tạo ra những người thầy luôn đặt ở vị trí cao nhất, thiêng liêng nhất để luôn nhắn nhủ đến các thế hệ học trò những lời như rút từ đáy sâu gan ruột của mình, rằng: Hãy thấy vinh quang với nghề làm thầy, nghề phấn trắng bảng đen. Với vai trò là nhà giáo dục môn Ngữ Văn, suốt nhiều năm dòng, thầy Nhị đã thổi vào tâm hồn hàng ngàn sinh viên tình yêu văn chương chân chính nhất.
Ngày giảng dạy trên giảng đường, tối lại về say mê nghiên cứu, đọc và ngẫm suy về những cuốn sách, công trình chuyên chở bao ý niệm và khát vọng từ cuộc sống do chính thầy Nhị cất công biên soạn nên hoặc viết. Trong mỗi tác phẩm, mỗi bài giảng, tính trí tuệ, mô phạm, sự lao động học thuật của thầy Nhị như mạch nguồn mát trong thẩm thấu vào người tiếp nhận. Hiếm có những chuyên đề, bài giảng nào mà không cuốn hút được những người thầy trong tương lai. Trong tâm thức bao thế hệ, từ thầy Nhị lan tỏa ra, niềm tự hào nghề giáo quấn quyện cùng khát vọng giữ gìn những giá trị cốt lõi, tốt đẹp liên quan đến chuyên ngành ngữ văn để còn trao truyền cho các thế hệ sau, dẫu nhọc nhằn. Vậy nên, ở những tác phẩm như “Bác Hồ trong thơ ca dân gian miền Nam”; “Sen Tháp Mười”…mỗi câu chữ thầy Nhị viết ra, sưu tầm nên cũng như cũng có linh hồn, linh hồn trong tâm tưởng, trong trái tim người viết, người tiếp cận. Nhiều thế hệ sinh viên, khi bước chân vào trường cứ ngỡ rằng học lấy một cái nghề nhưng được nghe thầy Nhị giảng, đọc sách thầy Nhị viết mới thấu hiểu cặn kẽ tiếng Việt đẹp chỗ nào, sâu sắc chỗ nào, hay chỗ nào và vì sao người ta ví văn là người, dạy văn là trồng người. Cùng với thầy Nhị, nhiều tên tuổi kỳ cựu khác đã làm nên những giá trị to lớn ở Khoa Ngữ văn là thầy Lê Trí Viễn, Cù Đình Tú, Nguyễn Nguyên Trứ, Trần Hữu Tá, Trần Xuân Đề, Lê Ngọc Trà…
Ấn tượng không phai với thầy Nhị còn là, dù ở vai trò giảng viên hay quản lý, lãnh đạo nhà trường ông vẫn dành trọn tình yêu thương, sự quan tâm cho học trò của mình. Điều ấy như liều thuốc tinh thần giữ thăng bằng, tiếp thêm sức mạnh giúp học trò vượt lên, trinh phục mọi gian khó thường nhật. Hơn 40 năm hình thành, phát triển, Khoa Ngữ văn đã thực sự trở thành mái ấm ươm mầm khát vọng cho nhiều thế hệ sinh viên mà thầy Nhị là một hạt nhân quan trọng. Thầy đã vun vén, kiến tạo nên các phương pháp tiếp cận ngữ văn hiệu quả nhất để mỗi sinh viên đều thức dậy niềm tự hào và tình yêu vô hạn đối với tiếng mẹ đẻ- tiếng Việt. Cuộn sâu vào khát vọng chuyển tải các kiến thức một cách hiệu quả, ở nhiều bài giảng hay tác phẩm của thầy Nhị người đọc, người nghe còn thấy rõ, hình ảnh quê hương, vùng miền của Tổ quốc với những xóm nhỏ. Bao điều thân thuộc chất chứa yêu thương, gần gụi và tự hào định hình và hun đúc nên tình yêu Tổ quốc bao thế hệ thông qua chính những những con chữ”
Tôi có thể viết gì hơn về anh nữa nhỉ, dù rất yêu mến anh và cũng được kể như là một trong những tri kỷ của anh? Nhưng thế hệ sau chúng ta- những em học trò của một miền Nam mới đã viết về người Thầy ” 30/4″ như anh như thế đấy!
Châu La Việt/Tạp chí Văn Hiến bản in