Nhân kỷ niệm 100 năm sinh Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1922-2023)
Về một con người đích thực.
Gần đây Thanh Thảo thường gửi cho tôi các sáng tác mới của anh, gần như vừa viết xong thì anh gửi ngay, những cái vừa ra lò, còn nóng hổi hơi lửa bếp, chưa đưa cho báo nào, thậm chí chưa ai được đọc; cũng có khi chưa xong hẳn, anh vừa gửi vài giờ trước lại gửi tiếp bản sửa anh bảo “hoàn chỉnh hơn”, mà cũng thường “hoàn chỉnh hơn” đến mấy lần liên tiếp. Điều ấy rất thú vị đối với người được tác giả coi là tri âm: có thể lắng nghe chuyển động tinh vi của một tác phẩm đang trằn trọc hình thành, lần theo một cuộc hoài thai.
Tôi cũng chú ý: anh chỉ gửi cho tôi toàn Trường ca, tức là, theo tôi hiểu, những gì ít nhiều có tính “sự tích”; những sự tích đó, chắc cả anh và tôi cùng ngầm hiểu, đều có liên quan theo kiểu nào đó, trong một chiều sâu nào đó, với cả hai chúng tôi. Tri âm nhắn gửi cho nhau. Lần trước là “sự tích” về người Mông, có lẽ là dân tộc kỳ lạ nhất trên thế giới anh với tôi đều từng nhỡ phải lòng. Lần này là trường ca về ông Sáu Dân, những người ít nhiều có quen biết thường thích gọi ông như vậy thay vì “Thủ tướng Võ Văn Kiệt” trang trọng và hơi xa cách. Tôi gặp ông và gần gũi, thật tiếc, chỉ vào khoảng 5 năm cuối của đời ông. Hồi ấy đang có Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, ông muốn theo mô hình đó lập thêm một viện chuyên nghiên cứu về văn hóa. Có ai đó tiến cử tôi. Gặp nhau và đang bàn tính, thì đột ngột ông mất. Tôi gặp ông muộn và ít, nhưng thường nghĩ về ông nhiều. Trong bao nhiêu điều về ông, tôi chỉ xin nói một điều này: ông là người khởi xướng và tổ chức, lặng lẽ, kiên định, hiệu quả việc khôi phục những khuôn mặt văn hóa lớn song lại có số phận éo le của Nam Bộ, những Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Phan Thanh Giản … Không chỉ của Nam Bộ, ông cũng là người có tác động quan trọng trong việc tổ chức định giá lại công bằng vai trò và công lao của các Chúa Nguyễn, các triều vua Nguyễn … Gần như chẳng có chút học vấn trường quy nào, nhưng không biết nên diễn đạt thế nào nhỉ, ông thực sự là một nhà văn hóa, trước hết là một nhà văn hóa, thôi thì nói cho gọn, một nhà văn hóa theo nghĩa đích thực nhất của cách gọi đó. Trí tuệ, tài năng, nhân cách, đức dũng cảm trí thức, và giản dị một cách rất tự nhiên. Sự giản dị của người biết thấu đâu là chân giá trị ở đời. Còn dũng cảm ư? Giữa chiến trường chẳng thiếu. Song nghĩ xem, có người cộng sản nào ở nước ta, về ngày 30 tháng Tư năm 1975, dám như ông nói rằng “có một triệu người vui thì cũng có một triệu người buồn”? Tôi thường hình dung khi nói như vậy ông thực sự rất buồn …
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Thanh Thảo muốn viết một bản trường ca về con người đó, mà, anh kể với tôi, anh chỉ gặp có mỗi một lần, đúng mười lăm giây. Cách đây gần nửa thế kỷ. Ngày Thanh Thảo còn là một cậu lính rất trẻ, công tác tại cơ quan Binh vận thuộc R (cơ quan Trung ương cục miền Nam), đâu đó trong những khu rừng bí mật Tây Ninh. Chiến tranh, nhưng lính Nam Bộ mà, huống nữa lại là nhà thơ, dù chưa nổi tiếng: rất tự do! Một hôm Thanh Thảo cùng một cậu bạn kéo nhau đi uống rượu ở đâu đó về, trên đường rừng, trời nóng, họ cởi phanh áo, vừa đi vừa ngâm thơ, không phải ngâm mà là hát, hát thơ, hát toáng lên giữa rừng … Thì gặp một đoàn người đi xe đạp tới. Người đi đầu là ông Sáu Dân – Võ Văn Kiệt, Bí thư Khu ủy. Hai anh chàng thi sĩ tự do biết quá đi chứ, cấp trên to nhất của họ mà, nhưng họ định cứ giả lờ đi, vẫn cởi trần, vung áo lên đầu, và oang oang hát thơ. Không ngờ ông Sáu xuống xe. Chẳng để làm gì cả. Để bắt tay chào hai chàng lính trẻ thi sĩ. Vậy thôi. Rồi lại lên xe, đi …
Tất cả chỉ có mười lăm giây, Thanh Thảo nhắc đi nhắc lại với tôi. Chính cái mười lăm giây đó đẻ ra bản trường ca hôm nay. Một tác phẩm nghệ thuật – một bản trường ca càng vậy chăng – bao giờ cũng chỉ được sinh ra từ một chấn động. Thanh Thảo thật sự bị chấn động bởi mười lăm giây đó. Có một câu hỏi, thoạt xem ra chẳng có gì quan trọng cả, nhưng đeo đuổi anh mãi cho đến bây giờ: Tại sao ông ấy lại làm như vậy? Ông ấy có thể thản nhiên đi qua. Nhiều lắm, có thể vẫy tay chào. Rồi đi. Sao ông lại dừng lại, lại xuống xe, bắt tay hai anh lính cởi trần trùng trục giữa rừng, còn nồng nặc hơi rượu, lang thang và nghêu ngao hát thơ?… Văn học nói cho cùng bao giờ cũng là viết về con người, là sự ngạc nhiên không bao giờ dứt về con người, là sự cố gắng mãi mãi, không cùng tận tìm cắt nghĩa con người. Và con người, có khi, chỉ cần qua một ứng xử rất nhỏ, rất “tự phát” nghĩa là chẳng cần, chẳng có tính toán gì hết, hoàn toàn tự nhiên, lại có thể bộc lộ tất cả, cái chất người sâu nhất của họ. Toàn bộ. Con người ấy, ông Sáu Dân – Võ Văn Kiệt từng làm đến Thủ tướng, từng quyết định và chịu trách nhiệm những vụ đại sự quốc gia. Trong đó, như ta đều biết, vụ làm đường dây 500 kilô vôn xuyên đất nước, hồi đó đã gây tranh cãi lớn, đến mức một Bộ trưởng, là cộng sự đắc lực nhất của ông phải vào tù. Ngày khánh thành công trình khổng lồ ấy, ông Sáu Dân mang một chai sâm banh vào tù cùng nhậu với vị Bộ trưởng đang ngồi tù của mình. Lẽ ra một chai rượu đế mới đúng, nhưng e vậy phạm quy chế nhà tù. Họ uống rượu với nhau, cười ha hả: Làm được công trình này, ở tù cũng đã! Hai con người hạnh phúc!…
Đối với Thanh Thảo, mấy con người đó, ông thủ trưởng hồn nhiên xuống xe đạp bắt tay anh lính thi sĩ trẻ giữa rừng Tây Ninh chiến tranh, và ông Thủ tướng mang rượu vào nhà lao uống với ông Bộ trưởng ở tù thời bình, cả con người thiết tha trả lại sự công bằng lịch sử cho những trí thức lớn và những triều đại éo le của dân tộc, con người ngày 30 tháng Tư tư lự nói rằng “có một triệu người buồn”…, là một. Chỉ có thể là một. Bản trường ca này là nỗ lực sáng tạo, là ước vọng nghệ sĩ, mong muốn nói về con người là một đó. Một con người đích thực đất nước từng có được, một thời.
Nguyên Ngọc
“Dạ, tôi là Sáu Dân
Là tôi thưa với nghĩa ân tình người
Tôi thưa với nhân dân tôi
Thưa cùng đất nước muôn đời Việt Nam”
Vợ con tôi giờ này ở đâu
Đáy sông nước êm hay nước xiết
Lục bình trôi mải miết
Hồn vợ con tôi nương náu nơi nào
Nửa khuya buồn một tiếng quốc kêu
Sao con tàu lại tên Thuận Phong
Sao vợ con tôi lại ngồi con tàu đó
“Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá về đồng ăn cua”
Bây giờ ăn gì cũng vậy thôi
Đâu còn vui nữa
Tôi cũng có những 0 giờ của mình, nào ai biết
Tôi cũng có những phút giây thảm thiết
Nào ai hay
Cuộc đời tôi không là diễn văn dài
Hay điếu văn ấn tượng
Tôi không muốn khi đứng lên nằm xuống
Lại có người tụng ca
Cuộc đời tôi bùn với đất chan hòa
Dù ngồi ghế Thủ tướng
Tôi không bao giờ mơ tưởng
Mình đứng trên mấy chục triệu người
Mấy chục triệu đồng bào tôi
Đứng trên làm gì hay để đè họ xuống
Tôi không bao giờ tưởng tượng
Mình làm được điều thất đức này
Vua Hùng xưa cũng không làm như thế
Dù thời ấy
Dân ta chưa đủ triệu người
Dù thời ấy
Chữ S chưa lượn sóng như bây giờ
Và Bà tôi còn nói:
“ Đồ trì ô trí mâm”
Tôi không hiểu
Có lẽ
Đó là một ngôn ngữ khác
Bao người vượt biên chết giữa đại dương
Vợ con tôi chết trên sông Sài Gòn
Vì bom Mỹ
Ngày Thống Nhất triệu người vui có triệu người buồn
Triệu người đoàn viên triệu người ly tán
Bơi về phía nào cũng đời tị nạn
Một biển Đông ken đặc hiểm nguy
Tôi làm sao thanh thản
“Nếu làm không được, người ra đi phải là các anh!”
Vâng, người ra đi là tôi, không ai khác
Ra đi như tiếng nấc
Vì để khổ dân mình
Ra đi như gió phất
Gửi trên rặng trâm bầu bình minh
Tôi biết rằm tháng Bảy bà con cúng hàng triệu sinh linh
Qua mấy cuộc chiến tranh loạn lạc
Ai cũng có thể là cô hồn phiêu dạt
Ai cũng có thể húp cháo lá đa tìm cõi Niết Bàn
Cõi ấy ở đâu tôi nào biết
Ba lạy này kính lên tiên liệt
Tôi là Sáu Dân nguyện chung số phận với mọi người
Ngay trên trần thế này thôi
Có anh bạn tâm giao
Ở một nhà hàng mậu dịch Quảng Ngãi
Hai Văn lúi húi làm bếp đãi tôi món siêu rẻ
Siêu ngon
Hai anh em chén tạc chén thù
Trăng trên đầu như đang vào thu
Bên một cầu thang gỗ
Đời tôi chưa phút nào nhẹ nhõm thế
Chúng tôi nói với nhau toàn chuyện tầm phào
Ăn với nhau một món tào lao
Uống rượu đế
Cười ha hả
Không nghị quyết không chỉ đạo
Chỉ một bát cháo
trắng với hột vịt muối
Lúc hừng đông
Trăng đã lặn về Thạch Bích tà dương
Ánh mờ như tiếng vọng
Quê tôi ở Vĩnh Long
Không biết vì sao mình yêu Quảng Ngãi
Có lẽ tổ tiên từng ở đó
Hay không phải?
Nhưng tổ tiên tôi là lưu dân
Không lang thang từ Bắc vào Trung rồi vào Nam
Thì còn đường nào đi nữa?
Có một nhà thơ hồi ấy trẻ
Hình như bây giờ đang viết cái gì về tôi
Tôi chỉ gặp anh một lần đường rừng vắng vẻ
Nhưng tôi biết anh này ngang hơn cua
Có gì đâu những người yêu nước
Không ai giống ai hết
Chúng ta giống nhau ở rừng
Chúng ta giống nhau ở địa hình
Chúng ta giống nhau khi hành quân vượt cung đường nguy hiểm
Chúng ta giống nhau khi đội bom
Chúng ta giống nhau khi sốt rét
Giống nhau cả khi chết
Nhưng mỗi chúng ta có một cuộc đời riêng
Và những nghĩ suy khác biệt
Có yêu thương nhau mới là đồng chí
Còn không biết yêu thương thì vô nghĩa
Đó là bài học tôi rút tỉa
Không dám dạy ai, chỉ tự răn
Hay vì tôi giống bên ngoại
Giống dòng sông tha thẩn trong lành
Hồi trẻ người ta bảo tôi hay quậy
Nhưng ai thấy tôi cười đều nói thằng này dễ thương
Thì dễ thương mới đi làm cách mạng
Dễ thương mới biết thương bà con
Mình chỉ là người hên xui tận mạng
Cuộc đời như một chiếc bánh phồng
Có lúc bánh phồng rồi bánh dẹp
Nhưng bánh làm thơm miệng bao người
Quê tôi cũng nghèo nghèo như chiếc bánh
Nén bao khao khát tận vòm trời
Từ sông Cổ Chiên tới Vàm Măng Thít
Nghìn lò gốm làm nên thành-phố-đỏ
Cứ san sát những cuộc đời đất nung
Thầm cháy bao ngọn lửa ven sông
Nơi bầy ngựa thường tươi vui gặm cỏ
Sao con ngựa đất nung ấy mặt buồn rười rượi
Người ta bảo đó là giống ngựa Chàm
Nó buồn như thế đã nghìn năm
Tôi chợt hiểu: một khi mình mất nước
Đến con ngựa cũng không sao vui được
Tôi đi làm cách mạng từ cuộc đời buồn của mình
Cuộc đời thằng thiếu niên ở đợ
Ngày mới sinh được cõng khắp làng
Bú chực sữa những bà mẹ nông dân
Tôi lớn lên nhờ dòng sữa ấy
Ơn huệ này trọn kiếp chẳng hề quên
Nhìn con ngựa bằng đất nung
Tôi cứ muốn nó vui lên một chút
Ngựa Chàm ơi, mày đừng buồn thế nữa
Mắt yêu thương lấp lánh nghĩa tình
Hãy thay đổi đời này. Nếu có thể
Rồi vân vi kể chuyện đời mình
Và ngay trong đêm tối, hãy tin
Lưng trĩu nặng đang thồ đầy ánh sáng
Con ngựa buồn nhìn tôi, mắt nó ngân ngấn
Tôi là Sáu Dân, tôi cảm nhận điều này
Mỗi giọt nước mắt buồn đều làm bật một chồi cây
Và đó là Cách mạng
Đời tôi gối đất nằm sương
Cuốn theo chiều gió đưa gió đẩy
Tôi về một đồng sen hoa mây mẩy
Nơi người tôi yêu chờ đợi cả cuộc đời
Giá mà sen nói được
Chúng tôi thương nhau làm sao
“Tôi cưới vợ chứ không lập chi bộ”
Hình như tôi nói thế
Khi người ta muốn tôi phải cưới vợ đảng viên
Tôi chỉ yêu cô gái ấy
Nhà cô giàu hay nghèo thì cũng vậy
Cô có phải đảng viên hay không thì cũng thế
Vợ chồng tôi sinh các con tôi
Như tất cả mọi người
Giờ này em ở đâu
Hãy chờ anh chờ anh, trời ơi
Bây giờ tôi mới hiểu
Vì sao con ngựa đất nung buồn thất thểu
Nó đã mất vợ mất con rồi, có thể
Nó mất luôn một tổ ấm bình thường
Tôi-một tá điền
Em-một bông sen
Nếu không có cuộc chiến tranh chúng mình đã yên ả vô cùng
Xin nói thật-tôi không màng chức tước
Nó không mang lại hạnh phúc
Mà tôi tìm kiếm suốt đời
Cái hạnh phúc trong xanh mơ hồ
Như hơi thở
Suốt đời tôi là con nợ của nhân dân
Với hạnh phúc tôi lại là chủ nợ
Có khi nụ cười như tấm rèm cửa
Dấu những khoắt khuya côi cút một mình
Biết đau khổ mới đi làm cách mạng
Biết yêu thương mới là người cộng sản
Biết nhường bạn chén cơm mới thấu lẽ nhân tình
Tôi là Sáu Dân, tôi nghĩ vậy
Nếu có gì không phải
Xin chước cho
Ngày khánh thành đường dây 500 KV
Tôi vào trại giam Thanh Xuân thăm anh Vũ Ngọc Hải
Lẽ ra mình nên mang chai rượu đế
Nhưng sợ phạm qui nên
Tôi mang theo một chai sâm-banh
Khui rất nổ
Hai anh em ngồi lai rai
Uống rượu trong tù không biết sướng hay khổ
Uống rượu trong tù lòng mừng quá cỡ
Từ nay lưới điện quốc gia chan hòa
Tận Cà Mau rồi Phú Quốc
Tôi tin ánh sáng sẽ tới với dân mình
Xin lỗi anh, anh Hải
Vì dự án này anh chịu khổ
Anh ở tù thay tôi
Nhưng bao người thợ thi công đường dây
Họ treo mình trên vách núi
Có những người nằm lại
Một góc rừng
Họ còn khổ hơn cả tôi và anh
Nào, cạn ly
Ở tù mà dân được nhờ
Thì cũng đáng!
Tôi chỉ là người đơn giản
Đơn giản – tôi là Sáu Dân
Nếu làm được gì cho Ân Nhân
Mình không làm – là có tội
Ngày Thống Nhất tôi vui lắm chớ
Nhưng tôi cảm hết nỗi âu lo
Ngay trên thành phố Bác Hồ
Sao tôi bỗng nghĩ suy không đơn giản
Không có cái tự kiêu người chiến thắng
Nhưng tôi hiểu mặc cảm người thua trận
Là người Việt Nam đừng hơn thua nhau sau cuộc chiến này
Một cuộc chiến quá nhiều khổ đau hệ lụy
Một bàn thờ hai đứa con khác phía
Mẹ dứt ruột đẻ ra giờ cư xử thế nào?
Anh đừng nói chúng tôi là cộng sản thì không phải quốc gia
Tôi không chiến đấu cho đất nước này thì cho ai? Chẳng lẽ cho Tàu cho Mỹ cho Nga?
Tôi thuộc về dân tộc tôi từ trong máu
Nhưng chúng ta cần làm lại
Ngay trong đầu mình
Bây giờ người ta gọi là “tái cấu trúc”
Vâng tôi đã tái cấu trúc đầu tôi
Nhưng nó vẫn vẹn nguyên đầu người Việt yêu nước
Đầu luôn dúi về phía trước
Nghĩ cho dân là nghĩ dám làm
Dám chấp nhận hiểm nguy dám đánh cược
Có hai câu thơ của một nhà thơ Việt
Tôi tâm đắc tới giờ :
“Người yêu nước vốn chịu nhiều thua thiệt
Có được chăng những tha thiết tim mình” (*)
Cái tôi được là niềm tha thiết
Cái tôi được nằm ngay trong thua thiệt
Chị Ba Thi ơi, hãy xuống đồng bằng mua gạo
Cứu dân Sài Gòn
Chị có bị tù thì tôi mang cơm
Đừng để dân mình đói
Trong khi gạo đồng bằng thừa mứa
Không biết bán cho ai
Có những nghịch lý một thời
Không giải quyết chỉ bằng chém gió
Mình nói trải thảm trọng người giỏi
Sao nhân tài cứ bỏ mình mà đi
Tôi biết ơn những người cộng tác
Những người tài hơn tôi học rộng hơn tôi
Họ thương tấm lòng tôi chân thực
Nên tình nguyện bên nhau giúp đời
Không có họ làm sao miền Tây thoát lũ
Rồi tứ giác Long Xuyên đổi thay gương mặt đồng bằng
Năng suất lúa vụt lên nhiều tấn
Sếu đỏ lại bay về Tràm Chim
Đừng nghĩ bản thân mình nhiều quá
Mà biết sẻ chia với tấm lòng
“Để làm gì em có biết không?
Để gió cuốn đi
Để gió cuốn đi…” (**)
Tôi yêu người nhạc sĩ ấy
Người cho tôi nếm trải
Mình có thể đứng lên từ một khúc nhạc buồn
Người cho tôi chiếc lá
Xanh như là giọt lệ tuôn
Tôi đã thiệt thòi nhiều thứ
Cho tôi một phút lắng lòng
Thế giới này quả thật mênh mông
Cuộc đời còn thơ ca và âm nhạc
Có thể tóc bạc nhiều tôi mới biết
Điều đơn giản này
Và một đêm mơ khải ngộ niềm khác lạ
Ánh sáng tràn ngập cả
Tôi giữ khoảnh khắc ấy cho riêng mình
Sắc sắc không không
Có khi là sắc sắc không không
Nhưng còn gánh nặng trần gian
Mình không gánh hỏi ai mang thay mình
Tôi xin theo Lục Vân Tiên
Xin theo Tử Trực Hớn Minh Tiểu Đồng
Xin theo những bước thong dong
Nhà thơ mù ấy sáng lòng muôn thu
Vâng, tôi đã khóc mỗi khi đọc thơ Đồ Chiểu
Với “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
Chúng ta có thơ và nhà thơ như thế
Không bao giờ mất nước!
Chợt nhớ nhà thơ Chim Trắng
Anh Bến Tre còn tôi Vĩnh Long
Tôi với anh đều xin họ mẹ
Chắc còn nhiều uẩn khúc trong lòng
Nhưng có chi trên đời ấm êm hơn mẹ
Có chi trên đời hơn nơi ta sinh đẻ
Những hàng cau quê ngoại
Rực sáng dưới nắng chiều
Anh Chim Trắng lấy họ Hồ là nhà thơ
Tôi lấy họ Võ
Không làm thơ
Chúng tôi giống nhau ngay lành mọc thẳng
Như cây cau với cây dừa
Một mai
Rồi tụ về nơi ấy cả
Không biết có còn cơ hội
Tự kiểm đời mình
Nhớ tới điều đó
Để hôm nay sống với nhau chân tình
Ánh sáng mỗi ngày đều như thế
Nhưng tôi cần một ánh sáng khác hơn
Soi lại cả những gì đã cũ
Những khổ đau dằn vặt tủi hờn
Không ai mới sinh đã hoàn hảo
Ánh sáng cũng vậy
Tôi thương thằng Dũng con tôi
Nó chết còn trinh trắng
Chưa một lần tỏ tình
Tôi không hiểu làm sao mình đồng ý cho nó xuống chiến trường
Biết nơi đó mười chết một sống
Nhưng con tôi giống tôi
Nó đã quyết thì không thể cản
Tôi làm cha đau đớn khôn cùng
Con ơi, cha mắc nợ con
Món nợ ấy muôn đời không trả được
Nhưng nước có giặc
Cha biết làm sao?
Cha mất con
Đất nước mất hàng triệu người con
Cứ tới mùa bông điên điển thắm vàng
Những đồng sen dâng hương theo nước nổi
Con tôi dừng ở tuổi hai mươi
Như một bông hoa không bao giờ nở lại
Một bông hoa trong lòng cha tê tái
Thôi con về với mẹ, các em con
Đợi cha, cha sẽ cùng sum họp
Những việc nhức đầu đều là việc nước
Tôi không biết tránh vào đâu
Những người ghét tôi những người thương tôi
Họ không thể nói tôi không trung thực
Điều tôi nghĩ tôi nói có lẽ họ đều biết
Chỉ có điều ai nói ra thôi
Khắc kỷ trong niềm tin
Nhưng tôi sống tươi vui đơn giản
Ai bảo làm chính trị không có bạn
Tôi nhiều bạn và chơi hết mình
“Đồng chí” là cái gì thật khó
Nhưng khó hơn là “đồng lòng”
Bởi lòng người vốn rất mênh mông
Ngày đám tang tôi người ta đuổi các nông dân mất đất chạy có cờ
Cả những bà mẹ từng mang cơm xuống hầm bí mật nuôi tôi
Sao lại thế?
Chúng ta không bảo vệ dân
Dân không bảo vệ ta
Thì làm sao ta bảo vệ được mình?
Bài học không chỉ thời chiến tranh
Mà ở mọi thời
Về Đồng Tháp mùa nước nổi
Ngắm những vùng sông trắng xóa cá linh
Những con cá nhỏ nhoi trôi dạt
Vì đâu chúng kết nối tận tình
Vì chúng biết nâng nhau nương nhau theo dòng
Trên đường ra tới biển
Ông Lý Quang Diệu nói đúng
Có những lý do khác nhau khiến chúng ta để vuột nhiều thời cơ
Chúng ta đã tụt hậu
Đây không phải thơ
Đây là xót xa bật thốt nên lời
Từng thấm nỗi đau nô lệ
Nay thêm nỗi đau dân nghèo nước nhục
Vì không bằng lân bang
Đã yếu thì ra đường hay sợ gió
Thì dễ bị người ta ăn hiếp
Tôi hiểu điều này từ bản thân tôi
Số phần thằng thiếu niên ở đợ
Đã cải họ Phan sang họ Võ
Mà chưa đổi được đời
Đừng để cả dân tộc đi ở đợ
Dù làm thuê cũng là chuyện thường tình
Nhưng tôi muốn Việt Nam có nhiều ông (bà) chủ
Họ giàu lên đàng hoàng cho đất nước giàu lên
Biết cái hố cách ngăn đầy đau xót
Xóa nó đi đâu có dễ dàng
Nhưng đó là phần việc của những người như tôi như anh
Và bao lớp người sau nữa
Phải làm
Tôi ghét nhất cái lợi thế
Lương chết đói và nhân công giá rẻ
Tiền thì ai cũng cần
Nhưng đừng quá tham
“Cuộc sống nếu mà như thế
Chỉ mánh mung với những đồng xu” (***)
Như thế đâu xứng là cuộc sống
Ngày tôi về Dung Quất
Nơi ấy còn mang tên “Vũng Quít”
Ngồi trên hòn đá bãi Tuyết Diêm
Lắng nghe làng nghèo ngày xưa làm muối
Tôi để ý một cây xương rồng
Mọc chật vật đơn thân bên đá cội
Hoa cháy đỏ niềm trông đợi
Như cái khổ cộng sinh cái Đẹp
Như cái Đẹp thoát ra từ vất vả khôn cùng
Cây xương rồng miền Trung
Về đây mới thấu hiểu nhân dân
Mới day dứt làm điều gì đó
Cho miền Trung bay lên
Có thể từ cây xương rồng làng Tuyết Diêm
Một nhà máy lọc dầu hoài thai cực nhọc
Hoa xương rồng ngọn lửa lọc dầu đỉnh tháp
Cháy khôn nguôi khao khát đổi đời
Và đường dây 500KV đường Hồ Chí Minh chiến lược
Cái khó nhất khi nhìn thấy trước
Rồi thuyết phục anh em nhìn cùng hướng với mình
Tôi Sáu Dân như một lẽ thường tình
“Thấy việc nghĩa không làm là đồ bỏ”
Câu thơ Đồ Chiểu mãi đinh ninh
Phía đầm xa con bói cá
Kiên nhẫn chờ phút giây vĩnh cửu
Những cây quít dại
Thở thoang thoảng mùi biển giã
Đàn bò nhẩn nha gặm cỏ
Lặng yên một đám mây vàng
Tôi yêu đất nước mình chứa chan
Chua xót
Không làm được gì cho đất nước
Là có tội với tổ tiên ông bà
Bây giờ thì tôi đi xa
Nói gì cũng muộn nói ra lại buồn
Những người tôi quí tôi thương
Lỡ làm khổ họ tôi thường xót xa
Một lời xin hãy thứ tha
Làm người ai chẳng bước qua lỗi lầm
“Đất nước lam lũ
Đi dần về phương Nam”
Một nhà thơ viết như thế
Lam lũ ấy có ông bà tôi nữa
Những lưu dân đào kênh khai đất mở đường
Nếu bây giờ có kênh T5 ở An Giang dài 48km
Bà con thương mà đặt tên tôi
Chứ con kênh ấy bà con đào hết
Tôi chỉ là người khởi xướng ra thôi
Nhờ tư vấn chuyên gia cộng sự
Dân ta bao đời lam lũ
Lẽ nào lam lũ mãi vậy sao?
Khiêm nhường không phải nhỏ bé
Hiền lành không đồng nghĩa cam chịu
Nhưng cần cắt đi từ “lam lũ”
Để dân mình lao động tự do
Có thể vất vả nhưng được làm người
Không phải ở nhà ổ chuột
Con cái được đi học
Không bị bạo hành
Tôi nói điều này với các anh
Đừng thương tôi mà nên thương Dân
Ông Lê Văn Duyệt ngày xưa làm như thế
Và Ông được toàn dân kính nể
Người tiên phong đưa Sài Gòn mở cửa
Chính là người giờ trụ ở Lăng Ông
Ai có công với Dân là có công với Nước
Xin khắc ghi điều đơn giản ấy vào lòng
Ở Điện Biên tháng 5 năm 1994 tôi cũng nói như thế
Về Võ Đại tướng
Không phải vì Ông cùng họ với tôi
Mà Ông cùng họ với Nhân Dân này
Tôi chỉ muốn là người tử tế
Không đổ lỗi cho lịch sử
Cuối cùng, với người Mỹ, tôi xin nói
Ngày xưa lẽ ra chúng ta là bạn
Nếu Tổng thống Mỹ tin Hồ Chí Minh
Với nước Mỹ Cụ Hồ chỉ muốn
Việt Nam là đối tác chân thành
Vâng, là đồng minh
Nhưng rồi…
Thôi, bỏ qua chuyện cũ
Các anh biết tôi vô cùng đau khổ
Vì cuộc chiến tranh này
Tôi thấu hiểu nỗi đau những người mẹ người cha Mỹ
Có con chết trận ở Việt Nam
Gia đình tôi gần như bị xóa sổ
Mà lẽ ra, chúng ta có thể sống an lành
Như mọi gia đình bình thường trên trái đất
Bây giờ xin hãy bắt tay nhau thật chặt
“Không có kẻ thù nào là vĩnh viễn”
Chỉ còn những tương đồng lợi ích quốc gia
Bạn xấu cũng đi đường bạn xấu
Trắng đen rồi phân tỏ thôi mà
Tôi những muốn về trần gian lần nữa
Về thăm chơi cho vui vẻ cửa nhà
Mong thấy được nhân dân mình đỡ khổ
Trái cây chín trên cành là Dân chủ Tự do
Và chỉ thèm ôm Việt Nam mãi mãi
Đất nước tôi niềm thương cảm vô bờ
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam ơi!
15/09/2014
(*) Thơ Trần Vũ Mai
(**) Nhạc Trịnh Công Sơn
(***) Nhạc Trần Tiến
Thanh Thảo
TIẾC THƯƠNG ÔNG SÁU VÌ DÂN
Tôi nghĩ không phải ngẫu nhiên mà Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt bí danh hoạt động cách mạng của mình là “Sáu Dân”. Có thể, ý nghĩa ban đầu của bí danh này đã có khi Ông Kiệt nghĩ mình “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” như mọi chiến sĩ cách mạng khác. Nhưng, về sau, qua suốt cuộc đời hoạt động cách mạng rồi xây dựng bảo vệ đất nước , trải bao thăng trầm của thế cuộc, bao đau thương mình và gia đình mình từng trải cùng nhân dân, bao chiêm nghiệm về lẽ biến lẽ thường trong đời sống, Ông Võ Văn Kiệt đã nhìn thấy trong cái tên bí danh “Sáu Dân” giản dị của mình mang nặng một lý tưởng: vì Dân. Đó là lý tưởng có từ thời các Vua Trần, có từ thời Nguyễn Trãi, có trong thơ Nguyễn Du, thơ Cao Bá Quát, đặc biệt là trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, có trong những lời kêu gọi thống thiết cháy lòng của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Và có trong tư tưởng, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là một truyền thống của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam: yêu nước luôn gắn liền với yêu dân, đấu tranh cho độc lập của tổ quốc chính là để cho nhân dân được tự do, hạnh phúc, để “Đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, như Bác Hồ hằng tâm niệm. Hơn mười lăm năm trước, đang giữ trọng trách thủ tướng chính phủ, sau khi thực hiện thành công dự án đường điện cao thế 500KV Bắc Nam dài 1400km, Ông Kiệt đã nghĩ ngay tới miền Trung – một miền đất dữ dằn, khắc nghiệt, nơi có nhân dân rất anh hùng nhưng luôn phải sống trong tình trạng bấp bênh giữa đói nghèo và thiên tai. Và dự án nhà máy lọc hoá dầu và khu kinh tế Dung Quất – Quảng Ngãi đã được tượng hình. Ngay khi rất nhiều người dân Quảng Ngãi chưa biết tới địa danh Dung Quất, càng không thể biết Dung Quất sẽ là nơi đặt khu công nghiệp lọc hoá dầu đầu tiên trong cả nước, thì Dung Quất đã nằm trong tư duy, dự tính và kế hoạch của Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Giống như khi Ông Kiệt quyết về dự án đường dây 500KV hay dự án quốc lộ Hồ Chí Minh, quyết định của Ông Kiệt chọn Dung Quất làm khu công nghiệp lọc hoá dầu không phải đã được mọi ý kiến đồng tình ủng hộ. Nhiều ý kiến phản biện đã được nêu ra, nhiều khó khăn được nhắc tới, nhiều lợi ích được bàn cãi, nhưng cuối cùng, tư tưởng “Vì Dân” của “Ông Sáu vì Dân” đã chiến thắng. Dung Quất đã được chọn. Không phải như sau này có ai đó nói, vì hình như ông Sáu Dân có “quê gốc Quảng Ngãi” nên Ông mới chọn Dung Quất để đặt nhà máy lọc dầu (!). Tư tưởng địa phương cục bộ “quê gốc”, là cái mà suốt đời Ông Sáu Dân cảm thấy dị ứng và xa lạ. Ông Sáu Dân chọn Dung Quất làm nhà máy lọc hóa dầu là chọn nơi đặt một điểm tựa, một động lực cho cả miền Trung cất cánh, là tạo những điều kiện cho nhân dân miền Trung thoát cảnh khổ nghèo. Quê hương của Ông Sáu Dân chính là nhân dân Việt Nam, dù là nhân dân ở đồng bằng Bắc bộ, nhân dân miền Trung, Tây Nguyên hay nhân dân đồng bằng sông Cửu Long. Làm gì cho nhân dân Việt Nam bớt khổ, thoát nghèo, và tiến tới sung túc chính là Ông Sáu Dân đã làm vì quê hương mình. Ngay trong thời gian Quảng Ngãi phát động “di dân Dung Quất lấy đất nền cho nhà máy lọc dầu”, Ông Võ Văn Kiệt đã không ít lần về tận Dung Quất, gặp người dân ở đó, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của họ để tìm ra quyết sách hợp lòng dân nhất. Và “Ông Sáu vì Dân” đã chỉ đạo, thay vì “di dân” theo kiểu “bứng sạch gốc”, thì với khu kinh tế Dung Quất nên dùng chính sách “dãn dân” theo kiểu “cài răng lược”, làm sao để các khu công nghiệp vẫn bảo đảm hoạt động bình thường mà người dân Dung Quất – chủ yếu là nông dân – vẫn có thể sống bên cạnh hay ngay trong lòng khu công nghiệp để tham gia làm công nhân, làm dịch vụ, và được hưởng lợi trực tiếp từ những hoạt động công nghiệp. Trong một lần về thăm Dung Quất, Ông Kiệt đã nói, đại ý: “Chúng ta làm công nghiệp hoá là để nông dân có cơ hội vươn lên một đời sống dễ chịu hơn, được hưởng lợi trực tiếp từ công nghiệp hoá, chứ không phải để bị bần cùng hoá, bị xua đuổi khỏi mảnh đất bao đời họ đã sống và canh tác, bị gạt ra bên lề của tiến trình công nghiệp hoá.” Tư tưởng vì dân là tư tưởng xuyên suốt, tư tưởng lớn nhất của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Đó là tư tưởng và là hành động suốt đời Ông, nhưng sự phát triển của nó không hề theo một đường thẳng giản đơn, không phải là chuyện “xưa bày nay làm”. Tư tưởng ấy sáng chói được như ở ngày hôm nay là kết quả của bao thao thức, kiếm tìm, trăn trở, từ sự chân thành nhìn nhận những sai lầm ấu trĩ tới sự quyết liệt trong suy nghĩ trong hành động vì mục tiêu Đổi Mới đất nước và cũng là đổi mới tư duy đổi mới cách nhìn nhận của chính mình. Những bài báo, những phát biểu gây chấn động trong những năm gần đây của “Ông Sáu vì Dân”, thực ra, đã có gốc rễ từ những năm tháng hoạt động cách mạng, nhất là từ hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ mà Ông Võ Văn Kiệt đã trực tiếp tham gia như một người yêu nước và như một nhà lãnh đạo. Như tư tưởng hoà giải, hoà hợp dân tộc đã có trong Ông Kiệt từ những năm Ông trực tiếp phụ trách chỉ đạo công tác binh vận ở Trung ương Cục (Cục R). Tôi có biết chút ít vì khi đó tôi là phóng viên chiến trường thuộc “khu vực binh vận” này, và Ông Sáu Dân là thủ trưởng cao nhất của chúng tôi. Khi Mỹ thực hiện chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh” với một biểu tượng hãi hùng là “Thay màu da trên xác chết”, chúng tôi trực tiếp xuống chiến trường để tìm hiểu viết bài đưa tin, đã nhận được những chỉ đạo cụ thể từ “Tổng hành dinh” của Ông Sáu Dân – một ngôi nhà sàn nhỏ trong khu rừng bên bờ sông Vàm Cỏ Đông. Tư tưởng xuyên suốt từ những chỉ đạo ấy là: đây là cuộc chiến tranh của Mỹ, nhưng xương máu lại là của người Việt. Mỹ rồi trước sau gì cũng về Mỹ, còn người Việt ở hai bờ một chiến tuyến thực sự về xương máu nhưng giả tạo về hận thù sẽ sống với nhau thế nào, sẽ nhìn mặt nhau ra sao một khi đất nước hoà bình? Câu hỏi ấy đã không thể trả lời dễ dàng suốt bao nhiêu năm nay, và “hoà giải hoà hợp dân tộc” luôn là một nỗi niềm đau đáu nhất trong lòng dạ Ông Sáu Dân – con người Việt nhân hậu và biết khoan dung này. “Biết tự hào nhưng phải biết khoan dung, đó mới thực sự là người Việt.”, Ông Sáu Dân đã có lần nói như vậy. Biết nén nỗi đau của cá nhân mình, gia đình mình mà nghĩ tới, mà sẻ chia, mà thông cảm nỗi đau của những người dân Việt bình thường khác, kể cả những người Việt vì rất nhiều lý do phải đứng ở chiến tuyến đối lập trong cuộc chiến tranh của Mỹ mà nạn nhân là tất cả người Việt, Ông Sáu Dân đã có được cái tâm mà ngày xưa Nguyễn Trãi đã có. Mất Ông, là người dân nghèo, người dân thân cô thế cô, người dân phải chịu nghịch cảnh do chiến tranh mất đi một chỗ dựa tin cậy. Nhưng có thể nhân dân và đất nước ta còn mất nhiều hơn thế. Bởi vậy, nơi suối vàng, Ông Sáu Dân chắc còn đau vì nhân dân mình, một nỗi niềm thiên thu của những Người Hiền.
(báo Thanh Niên 15/6/2008)
MƯỜI LĂM GIÂY
Tôi nhớ, có một lần tôi với Lưu Kiểng Xuân lang thang trong rừng thuộc căn cứ Binh vận. Chúng tôi đi uống rượu ở một “cứ” khác, cách dăm bảy cây số gì đó, đang trên đường về. Trời nóng, hai anh em lại có hơi men, nên cởi trần, vắt áo trên vai, cho nó mát. Đang đi bộ thì phía đối diện có một nhóm người đi xe đạp. Người dẫn đầu đoàn ấy, hóa ra, là ông Võ Văn Kiệt (Sáu Dân). Thấy hai chúng tôi, ông Kiệt chủ động xuống xe đạp, chào hỏi, bắt tay hai thằng lang thang này rất thân tình. Xong lại lên xe đạp đi. Tôi với Tư Xuân cũng bắt tay thủ trưởng của mình một cách vui vẻ, vẫn cởi trần, và áo vẫn khoác vai. Đó là lần duy nhất tôi gặp ông Võ Văn Kiệt. Tất cả chỉ trong khoảng 15 giây. Và tôi thấy ông này được. Giá như người khác, cứ ngồi trên xe đạp, giơ tay chào chúng tôi, cũng xong. Hoặc không thèm chào, cứ thế đạp xe qua, cũng chả ai nói gì. Nhưng ông Kiệt đã xuống xe, đàng hoàng và lịch sự bắt tay chúng tôi, hai thằng lính đang cởi trần. Có thể Tư Xuân thuộc thành phần “khách”, còn tôi, đâu phải khách, cũng chả là gì. Nhưng ông Kiệt đã hành xử rất văn hóa. Mà đã văn hóa thì chỉ có con người với con người, không cấp dưới cấp trên gì hết. Đó là cách đối nhân xử thế đẹp của ông Võ Văn Kiệt, để về sau này, giới trí thức hay văn nghệ sĩ Sài Gòn rất “chịu”. Muốn hòa giải hòa hợp dân tộc, trước hết, phải biết cư xử với nhau cho có văn hóa. Và phải bắt đầu từ nội bộ mình, trước khi thể hiện với người ngoài. Thiếu món “văn hóa” này thì khoan hãy bàn chuyện khác. Không có gì ngạc nhiên, khi chính ông Võ Văn Kiệt về cuối đời, là người lãnh đạo trăn trở nhất về chuyện “triệu người vui, có triệu người buồn”, về hòa giải và hòa hợp dân tộc. Tiếc thay, ông Kiệt đã về cõi vĩnh hằng khi những tư tưởng tiến bộ nhất của ông chưa có điều kiện trở thành thực tế.
(trích “Lang thang qua chiến tranh”)
Nhà thơ Thanh Thảo.
Thanh Thảo