Đa số chúng ta dễ dàng nhận định rằng một vị đế vương có thể có nhiều thê thiếp, cho đó là điều đương nhiên, cũng cho rằng tại thời Trung Quốc cổ đại tồn tại chế độ đa thê thiếp. Thực ra không phải vậy.
Rất nhiều người hiện đại đều thông qua các tác phẩm tiểu thuyết, phim kịch truyền hình để nhìn nhận Trung Quốc cổ đại. Đồng thời thông qua các tác phẩm phim kịch đó để phân tích, định nghĩa hoàn cảnh văn hóa xã hội thời bấy giờ. Vì thế, khi các bộ phim cung đình được diễn xuất, mọi người đều cho rằng chế độ đa thê thiếp tại Trung Quốc là đương nhiên, nhận định rằng Trung Quốc cổ xưa tồn tại chế độ đa thê thiếp. Thực ra, chúng ta đều không biết Trung Quốc từ cổ tới nay chỉ tồn tại chế độ một vợ một chồng, và bác bỏ hình tượng đa thê thiếp.
Truyền thống một vợ một chồng là chủ yếu
Từ cổ đến nay Trung Quốc chỉ tồn tại mô hình một vợ một chồng.
Dựa vào những phát hiện của khoa học khảo cổ, văn hóa Ngưỡng Thiều từ năm 3500 – 3000 TCN, cuối thời văn hóa Đại Vấn Khẩu từ năm 4300 – 2500 TCN, văn hóa Tề Gia từ năm 2500 – 1500 TCN, đều phát ra những mộ đôi hợp táng nam nữ. Do đó có thể thấy thời đó đã xuất hiện chế độ một vợ một chồng vững chắc.
Hơn nữa khoảng thế kỷ 11 đến thế kỷ 17, vẫn luôn tồn tại xu thế một vợ một chồng, ngay cả tầng lớp hoàng gia quý tộc có thể chấp nhận nhiều tập tục khác nhau, cũng là phù hợp với thời kỳ đó, vì thế tuy xã hội có tồn tại chế độ đa thê thiếp, nhưng rất nhiều giai đoạn triều chính các đế vương lựa chọn hình thức một vợ một chồng. Có nhiều nhân tố liên quan tới việc chọn một vợ hay nhiều vợ, nhưng đại sự trong nhìn nhận của đa số quần chúng chính là có người thừa kế.
Như vậy, đối với các bậc hoàng gia quốc thích để củng cố cho quyền lực, tài sản thì người thừa kế trở nên càng quan trọng. Cũng vậy, vào triều đại nhà Thương thực hành chế độ con cả thừa kế, cũng là do người mẹ đưa quý tử làm chỗ dựa, cũng dần sản sinh sự phụ thuộc.
Đến triều Chu dựa vào nhà Thương làm cơ sở chế độ thê thiếp dần cải thiện, điều này là vì muốn ngăn chặn chế độ đa thê thiếp tạo thành hỗn loạn, tránh việc vì quyền lợi kế thừa mà dẫn đến tranh chấp, do đó đặc biệt quy định vợ chỉ được phép có một, người sau chỉ được gọi là thiếp.
Bất luận người thiếp nào cũng không thể xếp ngang hàng với người vợ, ngay cả thiên tử ngồi ở ngai vàng cũng phải tuân thủ quy tắc chỉ được một vợ, những người khác đều là thiếp. Do vậy, mới xuất hiện điểm khác biệt giữa con của vợ là đích tử, con của thiếp là thứ tử, “Lập đích dĩ trưởng bất dĩ hiền, lập tử dĩ quý bất dĩ trưởng”, nghĩa là: Lập đích tử kế thừa vương vị thì chọn trưởng không phải chọn hiền, nếu vương hậu không con, không có đích tử thì đến thứ tử, khi đó chọn người nào mà mẹ có địa vị tôn quý không chọn tuổi lớn.
Quá trình phát triển của chế độ một vợ một chồng
Trước thời đại nhà Tần, chế độ một vợ một chồng đang dần hình thành, cho đến triều Tần Hán mới chính thức được quy định. Đương thời nhân dân dựa vào pháp luật của Tần Hán, không thể phi pháp kết hôn, trường hợp không theo pháp luật sẽ bị trừng phạt, đồng thời pháp luật nghiêm cấm thê thiếp chuyển vị, khi người vợ qua đời, những người thiếp khác đều không được phép thay thế.
Trong nho giáo giải thích về chế độ một vợ một chồng rằng: “Bất luận là giai cấp thiên tử hay bách tính, vợ và chồng trên danh nghĩa đều hưởng quyền bình đẳng. Còn thiếp thì chỉ ở thời gian nào đó theo quy định mới là người phụ nữ được sống cùng chồng”.
Từ các sự việc cho thấy, truyền thống thời cổ đại đều coi trọng chế độ một vợ một chồng. Hơn nữa nếu dựa theo chế độ tông pháp coi trọng thân phận, địa vị, vậy cũng không thể nói là chế độ đa thê thiếp. Nếu phân định nghiêm khắc, thì chỉ có thể thuộc về chế độ một vợ một chồng (nhiều thiếp). Bởi địa vị và thân phận của người thiếp không thể so sánh với người vợ. Tuy có nhiều chỗ khác biệt, nhưng nếu nói một chồng nhiều vợ thì có nhiều chỗ không hợp lý. Cho nên, có cách giải thích thành: chế độ một vợ một chồng đa thiếp, sau này tạo cơ sở cho chế độ hôn nhân một vợ một chồng làm nguyên tắc cơ bản.
Vào triều Hán thi hành chế độ một vợ một chồng, ảnh hưởng rất sâu tới sau này, chủ yếu lưu truyền hình thức hôn nhân tại Trung Quốc. Trong các văn phạm nghiêm cấm trong hôn nhân đã có vợ vẫn tiếp tục lấy vợ khác, nghiêm cấm thê thiếp cùng vị, ngoài vợ ra thì những người phụ nữ khác chỉ làm thiếp, điều này đều để củng cố cho chế độ một vợ một chồng.
Luật pháp đời Tống cũng như vậy, các nhà lý học càng coi trọng luân lý gia đình, quy phạm hôn nhân, mà đạo vợ chồng lại là căn bản của nhân luân.
Đến triều Minh Thanh cũng không có những khác biệt với các triều đại trước, đều phản đối đa thê, cấm chỉ hỗn loạn trật tự thê thiếp. “Đại Minh hội điển” có chi chép rõ phương thức trừng phạt người vi phạm: “Người đã có vợ lại lấy thêm vợ thì bị đánh 90 gậy và phải ly dị. Người trên 40 tuổi mà không có con trai mới được lấy thiếp. Người vi phạm bị đánh 40 gậy”.
Ngoài ra, từ ‘bình thê’ là chỉ thương nhân thời Minh – Thanh đã có vợ, làm ăn buôn bán ở xa lâu ngày có cưới người phụ nữ khác, cũng chính là vợ tồn tại đồng thời với chính thê. Tuy cũng gọi là ‘thê’, nhưng lại không hợp với phép tắc lễ nghi, cho nên về pháp luật thời Minh – Thanh vẫn quy về thân phận của thiếp. Những năm Càn Long, nhà Thanh thực thi pháp luật ‘khiêm diêu’, tuy nói là cho phép con trai độc nhất, khi chú bác ruột không có con trai thừa tự thì có thể lấy ‘bình thê’, nhưng cho đến tận những năm đầu Dân Quốc, về pháp luật vẫn bị coi là ‘thiếp’.
Người nạp thiếp chỉ là thiểu số
Theo nghiên cứu của các học giả, đại đa số dân chúng cho rằng xã hội truyền thống thực thi chế độ một chồng nhiều vợ (đa thê), nhưng thực tế chính là chế độ một vợ một chồng (có thể nhiều thiếp – đa thiếp). Nhưng theo các tư liệu văn hiến cho thấy, chỉ có cực ít số người mới chính thức nạp thiếp. Người nạp thiếp chủ yếu là người có địa vị xã hội cao, nói cách khác là có địa vị giai cấp càng cao thì số lượng nạp thiếp càng nhiều. Do đó hoàng thân quốc thích nạp thiếp thì số lượng sẽ là lớn nhất, kế đến là các trọng thần, phú hộ, người dân thường rất ít cơ hội nạp thiếp. Do đó trong văn hóa truyền thống, nạp thiếp được coi là đặc quyền của giới quyền quý.
Người nạp thiếp rất hiếm, chủ yếu có hai nguyên nhân. Thứ nhất là chi phí nạp thiếp không phải là việc người dân bình thường có thể gánh nổi. Thứ hai là pháp luật có những hạn chế đối với việc nạp thiếp.
“Đại Minh hội điển” đã nói rõ các phương diện hôn nhân phải tuân thủ pháp luật như: “Thừa tự chọn theo hôn nhân, theo pháp luật. Hôn nhân theo quy định thời gian, tuổi tác. Nghiêm cấm hôn nhân tùy tiện. Thiếp, người hầu có quy định hạn chế”.
Đồng thời “Đại Minh hổi điển” cũng chỉ rõ lấy thiếp, số lượng thiếp thì phải được Bộ Lễ thẩm lý: “Vương phủ lấy thiếp chọn nàng hầu, đều phải tấu bẩm lên trên trước. Trong bản tấu phải ghi rõ tuổi tác bao nhiêu, có đích tử không, có thiếp chưa, và có bao nhiêu thiếp, rồi đợi Bộ Lễ thẩm tra về người thừa kế, số lượng thiếp, so với bản tấu đều là thật, thì mới được phép lấy thiếp, tuyển nàng hầu. Lạm dụng quá số lượng, phải theo Bộ Lễ cắt giảm”.
Tuy pháp luật quốc gia có quy định rõ ràng, nhưng khó tránh khỏi việc chấp pháp không nghiêm. Những nơi vùng xa trung tâm đầu não quốc gia thì càng lơi lỏng hơn. Nhưng về tổng thể mà nói, nhân dân bách tính phổ thông không thịnh hành nạp thiếp.
Gia đình 5 người là lệ cũ ngàn năm
Mọi người thường cho rằng gia đình truyền thống là đại gia đình, nhưng nếu từ số liệu nghiên cứu của các nhà sử học thì phát hiện ra thực tế không như vậy.
Từ các ghi chép văn hiến thống kê hộ khẩu còn lưu lại, các nhà sử học dựa vào số liệu đáng tin cậy từ năm Nguyên Thủy thứ 2 đời Tây Hán (năm 2) đến năm Tuyên Thống thứ 3 đời Thanh (năm 1911), suy đoán số lượng bình quân hộ khẩu gia đình xưa là 4,95 người. Phát hiện của các nhà sử học hoàn toàn khớp với cách nói trong dân gian ‘gia đình 5 người’ (ngũ khẩu chi gia).
Đến thời Dân quốc, gia đình vẫn duy trì quy mô 5 người, nhà nào cũng ở trạng thái tam đại đồng đường. Từ quy mô một gia đình 5 người có thể thấy, từ xưa đến nay, đại đa số gia đình thuộc chế độ một vợ một chồng. Cũng có nghĩa là chế độ hôn nhân truyền thống một vợ một chồng là chủ yếu.
Theo secretchina.com