Ở tuổi bảy mươi có lẻ, nhà văn Phạm Lâm, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Nam vừa hoàn thành tập hai của Chuyện Làng, một công trình tâm huyết của anh. Có lẽ nhiều bạn văn chỉ quen biết với Phạm Lâm chừng hơn mười năm nay. Bởi trước đó anh là cán bộ nhà nước mẫn cán, ít giao du văn nghệ. Rồi nghỉ hưu, anh chơi với văn nghệ vì đam mê. Khởi đầu là Chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ nhạc Sông Tranh, rồi Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Hiệp Đức. Và tại đây, đam mê và khả năng kết nối của anh mới thật đắc dụng.
Song phải đến khi cho ra đời tập văn Chuyện Làng, anh mới thực khẳng định mình trong tư cách một nhà văn. Và, với tôi, Chuyện Làng của Phạm Lâm là một bất ngờ lý thú. Bất ngờ với tính phong phú của công trình, hai tập của Chuyện Làng với ngót 400 trang sách và với đủ thể loại khảo cứu, ký sử, ghi chép, Phạm Lâm đã lưu giữ lịch sử văn hóa làng với ngót ba trăm năm. Nội dung ấy, công việc ấy thường là nội dung, công việc của một tập thể chấp bút. Nhưng anh đã lặng lẽ đi và viết. Đứa con tinh thần ấy đã vạm vỡ chào đời.
Chuyện Làng là bao huyền tích làm nên văn hóa một vùng đất, những huyền tích một thời bà kể cháu nghe trong những đêm trăng: Sự tích mục đồng cầu bông, Trần Bình đả hổ, Ghềnh Tiên và Nước Mắt, Đức thầy hán Đỗ Huyền Quân cưỡi hổ… Thấy rõ một thời khai thiên lập địa của cha ông khi trên rừng, dưới sông đâu cũng hiểm nguy phong tỏa, chỉ can trường và sức mạnh, tâm hồn và tình yêu mới dựng nên được một vùng đất để truyền đời cho những thế hệ mai sau.

Rồi những dấu xưa, hậu tích theo thời gian lớp lớp trở về với những địa danh “Đình làng Phước Sơn”, với “Tiền hiền làng An Sơn”, với những nhân vật của quê hay những con người đã đến với quê và đi vào lịch sử như Nguyễn Duy Hiệu và căn cứ An Lâm, như cụ Lê Ấm “người con rể của Phan Chu Trinh trên đất Hiệp Đức”… Những huyền tích đẹp đẽ ấy đang dần mai một theo thời gian và sắp sửa mất dấu trong thời công nghệ nghe nhìn 4.0, Phạm Lâm đã kịp thời lưu dấu. Tôi nghĩ mỗi nhà văn thường có một thời điểm riêng của mình, và nhà văn Phạm Lâm đã xuất hiện đúng thời điểm. Có lẽ vì vậy mà bạn đọc ở quê rất yêu mến anh. Song, đam mê và trách nhiệm chưa đủ làm nên một nhà văn. Phạm Lâm là nhà văn bởi anh bắt đúng cái tông, cái điệu của làng bằng giọng văn giản dị mà thấm thía. Giọng văn anh gần gũi với giọng quê, khề khà kể chuyện mà không quá trau chuốt. Mà đó là giọng của làng — như gió quê, như tiếng suối, như tiếng chim bìm bịp kêu chiều… Và bằng giọng quê ấy, Phạm Lâm đã lưu giữ được cái hồn quê neo trên triền núi, văng vẳng khắp đầu nguồn sông Thu, như tiếng thương, như lời sẻ chia ai oán, như lời ca từ mấy trăm năm vọng lại: “Ai về nhắn với Ba Hang / Thuồng luồng đã bị hổ mang hại rồi” (Sự tích Thuồng luồng Ba Hang).
Bằng chất giọng ấy, vùng đất thân thương xưa lại thêm một lần thân thuộc với hồn cốt, tâm tình quê hương. Tôi nghĩ, tâm tình ấy cần lắm cho hành trang của những người con quê xứ, để những người làm cha, làm mẹ bớt nhọc nỗi thon thót giật mình khi lớp lớp cháu con cồng kềnh hành trang vào thế kỷ mới mà thiếu vắng bóng dáng quê hương.

Tập sách cũng dành những ghi nhận về chiến công và hy sinh của con dân Hiệp Đức cho sự nghiệp chung: Phạm Văn Mua, Hai Lũy, Trần Ngọc Tuấn, Đặng Công Thật, Võ Kiện, Trần Thanh Hồng… Ở đây là những chia sẻ, vinh danh những người anh, người bạn trong thời của anh, như anh kể: “Trần Thanh Hồng, với tôi vừa là người anh, vừa là người bạn chung xóm, chung làng từ những ngày còn thơ ấu (…), không so đo tuổi tác, anh, tôi và những đứa trẻ cùng nhau chăn trâu, cắt cỏ, rủ nhau chơi trò ú tim, rồi chia phe đánh trận, dẫu cho cuộc thắng thua chỉ quẩn quanh trong giới hạn của lũy tre làng.” Ở những câu chuyện này, không còn phủ một màu nên thơ cổ tích nữa, giọng văn thiên về giọng báo chí để chuyển tải thông tin. Song, ở đây vẫn đáng ghi nhận nỗ lực kiếm tìm đầy trách nhiệm của Phạm Lâm.
Khởi từ tập thơ Con sóng lòng anh là một đam mê, trụ vững trong văn chương với Chuyện Làng tập I, tiếp tục với Chuyện Làng tập II, Phạm Lâm đã chạy nước rút bởi anh biết thời gian viết của người cầm bút là hạn định, mà anh đã gia nhập “câu lạc bộ cổ lai hy” rồi. Nên đọc những trang sách mà ngộ thêm một điều: Chuyện viết văn đâu chỉ là chuyện văn chương, mà còn là — và cơ bản là — chuyện của những điều tâm huyết. Nhớ câu thơ Đỗ Phủ: “Cổ lai tồn lão mã, bất tất thủ trường đồ” (Người xưa có ngựa già vẫn còn, há phải giữ mãi đường dài). Nên được chặng này, cứ vui chặng này đã. Cũng đã yêu, đã trách nhiệm với cuộc đời — cuộc chơi lắm rồi, anh Lâm ạ!
NGUYỄN TẤN ÁI





