Người ta thường dùng “một nén tâm hương” để hình dung về tấm lòng tràn đầy sự thành kính, một tấm lòng thành kính cũng giống như việc dâng hương lên Đức Phật.
Người Phật tử dùng vịêc đốt hương cúng dường Tam bảo để thể hiện tấm lòng thành kính của mình, tấm lòng thành kính ấy cũng giống như đốt hương hay còn gọi là “tâm hương”.
Một nén tâm hương
Phật tử dùng việc thắp hương cúng dường tam bảo để thể hiện sự thành kính, lòng thành kính như hương thơm còn được gọi là “Tâm hương”.
Chẳng hạn vào thời Lương Triều, Giản Văn Đế trên bản khắc ở chùa Tương Cung đã ngâm rằng “Cửa sổ thư ý nhị, thất độ tâm hương” ý nói rằng tâm hồn rộng mở, thì nơi ấy tràn ngập hương thơm.
Cổ nhân trong cuốn Thượng Thư đã nói: “Chí trị hinh hương, cảm vu thần minh” dâng kính lên loại thơm ngát truyền từ sâu thẳm lại có thể cảm động đến thần linh, ai cũng đều thấy được. Bất kể là Phật, hay là tín ngưỡng đạo, đều coi trọng “tâm hương”, bất kể là vô hình hay hữu hình đều nặng ở tâm ý thành kính.
Đạo giáo có tám loại hương thượng đẳng, được gọi là “Thái Chân Thiên Hương”, đó là: Đạo hương, Đức hương, Vô Vi hương, Tự Nhiên hương, Thanh Tịnh hương, Diệu Động Chân hương, Linh Bảo Tuệ hương, Siêu Tam Giới hương.
Vào triều đại Nam Tống, Trữ Toàn Chân tổ sư trong cuốn “Thượng Thanh Linh Bảo Đại Pháp” có đoạn nói về Đạo hương trong đó chỉ tâm hương, cũng là một loại hương thơm ngát “Đạo hương giả, tâm hương thanh hương dã”.
Tức là nguời lấy tâm linh thanh thuần không truy cầu mà kính lạy, thần đều minh tỏ, tâm hướng về thiên đạo, chính là tâm hương. Mặc dù có thắp nén hương nào hay không, loại tâm hương này đều là loại hương thơm thành kính và tinh khiết.
Trong thiền phái, ở các thiền viện trước khi bắt đầu thuyết Pháp ,đầu tiên thường là dâng hương lên Sư Tổ, giống như Từ Minh hòa thượng đã khấn rằng: “Ngày này nhân duyên không nhỏ, xin dâng một nén hương lên Thiền Sư” – Cổ Tôn Túc trích lời Hòa thượng Từ Minh.
Ở đây dùng một nén hương dâng kính bề trên, nhưng quan trọng hơn nó chính là hình ảnh trừu tượng thể hiện cho “một nén tâm hương” thành kính và tận tụy.
Vấn đề thờ phụng Thần, Phật không phải là sự phong phú hay giá trị của lễ vật, mà là bằng tấm lòng thành kính biết trân trọng và không cầu xin bất kì thứ gì, đó là nén hương tốt nhất, năng lượng của nó đã vượt qua cả mắt thường.
Ví dụ, bài hát “Chúc tụng hương thơm” có câu hát:
“Hương tự thành tâm khởi, yên tòng tín lý lai, nhất thành thông thiên giới, chư chân hạ Dao giai”.
Tạm dịch nghĩa là hương đến từ lòng thành, khói hương từ sự thành tín, một lòng thành dẫn đến các tầng trời, chư chân hạ Dao giai.
Vào Thời Đường Hàn Ác đã từng ngâm thơ rằng “Nhất chú tâm hương động phủ khai, yển tùng trứu sáp bán môi đài, thủy thanh vô để sơn như tước, thủy hữu tiên nhân thụy lạc khai”.
Bài thơ có ý nói rằng tâm thành kính như nước xanh không đáy, hiểu rõ ngoài tam giới thì mới có thể cảm động đến tiên nhân giáng trần.
Vào thời Đại Tống, Cù ông cũng nói rằng văn khấn cầu mưa tất cả cũng chỉ nhờ vào một nén Tâm hương.
Từ xa xưa, rất nhiều các bậc văn nhân, sĩ phu cũng có tín ngưỡng sùng đạo, từ đời Tống, hình ảnh “tâm hương” đã nở rộ trong thơ ca, trong tiểu thuyết, chúng ta còn thấy phong tục dân gian thờ Thần, Phật bằng “tâm hương”.
Chẳng hạn như trong “Tây du ký” viết về con gái một gia đình giàu có đoạn: “Tiểu thư bước vào cổng chùa, nhập hàng Bồ tát, thiết chay lớn. Gọi tỳ nữ mang giày, tất mùa hè bỏ lại trên đĩa, và đến Pháp đường, lấy tâm hương lễ bái”. “Tâm hương” ở đây được nói đến chính là sự thành kính thường hằng lễ bái.
Hương hay Nhang không nhất thiết phải là nhang dây, còn có đa dạng những nhang có hình chữ, hoa văn, được gọi là Hương khắc hay còn gọi là Hương Triện.
Vào Đời Tống trong Trần Kính trứ tác – Trần thị hương Phổ – quyển 3, Quỳnh tâm hương có thành phần và cách làm, nhưng không ghi hình dạng, còn có “Bảo triện hương”, hương đốt xong không còn một tàn hương, nói cách khác triện hương không nhất thiết là loại hương dây mà thường là hình dạng như chữ triện hoặc đa dạng các vật.
Người Tống dùng các loại khuôn mẫu làm Hương triện, đem bột hương trộn đều bỏ vào khuôn rồi ép cố định thành hình dạng chữ hoặc vật, đây chính là hình dáng của nhang vòng hình triện.
Người họ Hồng Sô đời Tống có nói trong cuốn Hương phổ rằng hương triện cũng có thể từ mảnh gỗ mà khắc thành, thậm chí có loại đường kính cực lớn tầm hai, ba thước, loại này không có bụi hương, dùng để dâng lên kính Phật, hoặc có thể hun hương bên cạnh bàn uống trà.
Tâm thành kính thì linh thiêng
Kính lễ Thờ chư Thần, Chư Phật trời đất, thì lòng thành là quan trọng nhất. Theo kinh Phật ghi chép, kiếp trước Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Nho Đồng. Một ngày nọ, chàng thanh niên ấy gặp vị Thượng cổ Phật là Nhiên Đăng Phật đang đi du ngoạn thế gian.
Chàng trai Nho Đồng muốn lễ Phật, thấy một người phụ nữ gần đó cầm trên tay bảy bông sen xanh, chàng mừng lắm, nên muốn mua năm bông sen xanh với giá cao. Người phụ nữ này tên là Cù Di, cô ấy rất tò mò vì không biết tại sao chàng thanh niên này lại muốn mua hoa sen xanh với giá cao như vậy.
Chàng trai Nho Đồng đáp rằng những bông hoa sen xanh này được dùng để cúng dường Đức Phật. Nàng Cù di rất cảm động, trong tâm đầy thành kính mà bày tỏ với chàng trai Nho Đồng rằng: ”Thì ra là như thế, nguyện kiếp sau chúng ta có thể là vợ chồng, vĩnh viễn không chia lìa”.
Nàng đưa hai bông sen xanh còn lại cho Nho Đồng: ”Hai bông sen xanh này, xin dâng Đức Phật”, vì nàng là thân nữ nên không thể đến gần Phật để cầu nguyện.
Phật Đà chứng ngộ thông thiên giới
Vậy là Nho Đồng dâng lên bảy bông sen xanh trước Nhiên Đăng Phật. Chàng trai thấy bùn dưới đất dễ làm bẩn chân Phật, bèn cởi y phục rải lên trên, nhưng vẫn chưa đủ, ông lại cắt đi búi tóc và trải ra đất, để Phật đi trên quần áo và tóc của mình mà qua chỗ lầy lội.
Trước tấm lòng thành kính của Nho Đồng, Nhiên Đăng Phật đã thụ ký cho cậu, bởi vì công đức kính Phật của cậu lần này, sau chín mươi mốt kiếp, cậu sẽ thành Phật tại thế, và tên là Thích Ca. Chàng trai Nho Đồng lúc bấy giờ chính là Đức Phật Thích Ca sau này. Nàng Cù Di trở thành vợ của Ngài, trước khi Ngài xuất gia, tức là thái tử phi Da Du Đà La.
“Một nén tâm hương” cũng chính là lòng thành kính tối cao nhất, một sự chân thành có thể thông thấu tới các tầng trời. Hương thơm của lòng thành kính có thể đến được Phật quốc, Tiên phủ, tâm thành thì mới linh thiêng, đã là truyền thuyết từ rất lâu rồi!
Sưu tầm/ Văn hiến Việt Nam