Nếu như những người con của Đức Hưng Đạo Vương, trai là danh tướng tài ba, gái là nữ kiệt anh hùng được người đời đều biết đến thì trong số các cháu của ông nổi trội nhất là Trần Quang Triều lại không phải bởi tài võ lược mà là nhờ tài văn chương.
Trần Quang Triều (1286 – 1325) còn có tên là Trần Nguyên Đạo, Trần Nguyên Thụ, hiệu là Cúc Đường Chủ Nhân và Vô Sơn Ông, quê gốc ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, TP Nam Định, tỉnh Nam Định), ông là con trai cả của Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng và là cháu nội Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
Xuất thân từ gia đình thế tộc danh tiếng, được rèn rũa, giáo dục tốt lại có thiên bẩm thông minh nên Trần Quang Triều là người giỏi văn thơ, thông hiểu binh pháp, từng cầm quân đi dẹp loạn biên cương lập công lớn, được triều đình tín nhiệm phong tước Văn Huệ vương và thăng tới chức Nhập nội kiểm hiệu Tư đồ. Sách Nam Định tỉnh địa dư chí viết về ông như sau: “Trần Quang Triều còn có tên là Quang Thọ. Ông là cháu Trần Quốc Tuấn, tước Văn Huệ vương. Thường làm nhà ở trong động sâu thuộc huyện Quỳnh Lâm, cùng các văn sĩ ngâm vịnh. Có tập thơ Cúc Đường di thảo. Vua Trần Minh Tông phong ông làm Tư đồ phụ chính”.
Một tư liệu khác là sách Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược thì chép: “Trần Quang Triều, ông là cháu Hưng Đạo vương Quốc Tuấn, tước Văn Huệ vương, từng ngụ tại Quỳnh Lâm Bích Động, có nhiều vịnh ngâm sơn thủy như tập Cúc Đường di thảo. Vua Minh Tông cho chức Tư đồ phụ chính, thời kỳ này ông từng ban nhiều tiền khuyến khích dân chúng khẩn hoang”.
Như vậy, khi viết về Trần Quang Triều, các tư liệu đều nhắc đến điểm nổi bật nhất của ông là thích ngâm vịnh, làm thơ…
Quyền cao chức trọng nhưng bình sinh ông không ham danh lợi, chức vị mà thích cuộc sống nhàn nhã, yên bình nên làm quan không lâu, Trần Quang Triều từ chức về vùng Đông Triều sống ẩn dật. Ông đã chọn khu vực gần chùa Quỳnh Lâm làm nơi sinh sống, đây là một trong những trung tâm Phật giáo Việt Nam thời Trần. Bản thân Trần Quang Triều và vợ là công chúa Thượng Trân rất mến mộ đạo Phật, họ đã nhiều lần cung tiến nhiều tài sản gồm tiền, ruộng cho chùa Quỳnh Lâm mà bia đá tại chùa cũng như một số sách như Tam tổ thực lục đã ghi lại…
Tại vùng đất phong cảnh đẹp tươi, yên bình này Trần Quang Triều đã cùng những người bạn, những danh sĩ, nho sinh và những người cùng sở thích tập hợp nhau lại cùng bàn luận văn chương, làm thơ xướng họa rất tâm đắc hình thành lên thi xã Bích Động.
Bích Động là tên gọi một am ở gần chùa Quỳnh Lâm, huyện Đông Triều, lộ Hải Đông (nay thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), Bích Động được Trần Quang Triều lấy làm tên của một “câu lạc bộ thơ” đầu tiên ở nước ta với tên gọi chính thức là thi xã Bích Động.
Thi xã Bích Động đã tổ chức những cuộc đàm đạo văn thơ lôi cuốn được không ít nhà thơ có tên tuổi, các danh sĩ, nho sinh và cùng nhau góp phần hình thành một dòng thơ mới thiên về những niềm tâm sự cá nhân, về tình cảm tha thiết với thiên nhiên và thân phận con người.
Trong số thành viên của thi xã, ngoài nhân vật giữ vai trò chủ đạo là Trần Quang Triều còn có những người khá nổi bật là Nguyễn Ức, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Sưởng,… Đây là những cá nhân ít nhiều có danh tiếng đương thời, như Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng, mới 16 tuổi đã đỗ Hoàng giáp, làm quan trải qua 3 triều vua, nắm giữ các chức vụ quan trọng (Kinh lược sứ, Đại hành khiển, Thượng thư hữu bật, kiêm công việc Viện khu mật…), có công lao trong hoạt động ngoại giao, đánh dẹp phản loạn và biên định luật pháp… Về Nguyễn Ức, không có nhiều tư liệu về thân thế của ông, chỉ biết ông có thời gian làm quan dưới triều vua Trần Minh Tông; còn Nguyễn Sưởng là một danh sĩ nổi tiếng ở kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ… Tất cả tuy xuất thân, địa vị có khác nhau nhưng lại tìm thấy ở nhau sự đồng điệu về thơ ca, họ đã khơi nguồn lên dòng thơ trữ tình và nhân đạo nhiều cảm xúc.
Có một điều rất thú vị là những nhân vật của thi xã Bích Động chịu ảnh hưởng mạnh của Nho giáo nhưng họ lại chọn vùng đất của đạo Phật làm nơi xướng họa, sáng tác của họ không bị bó buộc theo khuôn mẫu từ đề tài đến cách hành văn với xu hướng ca tụng vương triều, chuyện trị quốc an dân, hoài bão chính trị mà lời thơ thiên về nỗi cảm hoài, về đời sống bình dân, nghĩa tình. Thậm chí các nhà thơ này tuy có mối giao lưu mật thiết với các vị sư tại chùa Quỳnh Lâm và đạo sĩ am Bích Động nhưng không bị ảnh hưởng của dòng thơ Thiền mà có sự giao thoa, tác động trở lại.
Một điều hay nhất, nổi bật nhất là dù đứng trên nhãn quan của tầng lớp trên nhưng đối tượng phản ánh mà các nhà thơ trong thi xã Bích Động hướng đến nhiều chính là người dân thường và cuộc sống của họ. Chính điều này đã mang lại màu sắc riêng, đặc trưng trong các sáng tác của thành viên thi xã.
Trong bài “Điếu tẩu” (Ông già câu cá) Trần Quang Triều gửi gắm thái độ coi thường địa vị với những câu như sau:
Độn lãng xuy triều thướng bích than,
Lỗ thanh di nhập bích vân hàn.
Kỷ hồi bạc nhị huyền chung đỉnh,
Na trọng Đồng giang nhất điếu can.
Nghĩa là:
Thác biếc triều dâng sóng cá heo,
Mây lồng hơi lạnh tiếng bơi chèo.
Đồng Giang cần trúc từng xem nặng,
Hơn cả mồi câu vạc đỉnh treo.
(Phạm Tú Châu dịch)
Hay như trong bài “Đề Gia Lâm tự” (Đề chùa Gia Lâm), Trần Quang Triều nói thẳng rằng danh lợi không phải là mục đích, là lẽ sống:
Tâm khôi oa giác mộng,
Bộ lý đáo thiền đường.
Xuân vãn hoa dung bạc,
Lâm u thiền vận trường.
Vũ thu thiên nhất bích,
Trì tịnh nguyệt phân lương.
Khách khứ tăng vô ngữ,
Tùng hoa mãn địa hương!
Nghĩa là:
Nguội ngắt lòng danh lợi
Am thiền rảo gót qua.
Xuân chầy hoa mỏng mảnh,
Rừng thẳm ve ngân nga.
Mưa tạnh da trời biếc,
Ao trong ánh trăng ngà.
Khách về, sư biếng nói,
Thông rụng, nức mùi hoa!
(Huệ Chi – Hoàng Lê dịch)
Hoặc trong bài “Trường An hoài cổ” ông viết rằng:
Hà nhạc chung tồn cố quốc phi,
Sổ hàng lăng bách bối tà huy.
Cựu thời vương khí mai thu thảo.
Mộ vũ tiêu tiêu dã điệp phi.
Nghĩa là:
Núi sông còn đó nước xưa đâu?
Nắng xế gò cao bách giãi dầu.
Vương khí một thời chôn dưới cỏ,
Bướm đồng chao cánh dưới mưa mau.
(Huệ Chi dịch)
Ngoài tình cảm đối với con người là tình yêu thiên nhiên của những nhà thơ trong thi xã Bích Động, thí dụ như Trần Quang Triều trong bài “Hoàng Châu đạo thượng tác” (Viết trên đường đi Hoàng Châu) tả cảnh rất hiện thực, sống động khiến người đọc như được tự mình thấy cảnh sắc đó:
Đường đi trơn đá núi,
Khói độc lẫn mây ngàn.
Buồm khách ngoài mưa gió,
Chùa cao hứng nắng tàn.
Đất dâu gai xanh rợp,
Trời quýt bưởi đỏ chan.
Xe trẩy bâng khuâng nhớ,
Lòng về trĩu tâm can.
Có thể nói Trần Quang Triều nói riêng và các thành viên của thi xã Bích Động nói chung với những sáng tác của mình đã khơi một nguồn mạch mới cho thơ ca nước Việt ở giai đoạn cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV với đối tượng phản ánh và cách diễn ra câu từ đặc sắc. Mặc dù mỗi người một phong cách nhưng thơ họ đã phản ánh được nhiều sắc thái của thực tế đời sống trong xã hội bằng xúc cảm gần với hiện thực đời sống, gần với đời sống tình cảm con người mang rõ hơi hướng “thi trung hữu họa”. Đó chính là dòng thơ trữ tình và nhân đạo đầu tiên trong đời sống văn chương dân tộc và điểm nổi bật nhất là cảm hứng về dân rất sâu nặng, da diết, yêu thương.
Về Trần Quang Triều, người đương thời đánh giá ông là bề tôi giỏi, vị quan văn võ toàn tài, xứng đáng là trụ cột của vương triều. Ông còn là nhà thơ tài hoa, tinh tế, phóng khoáng; các sáng tác hàm súc, cô đọng, dễ hiểu mà như học giả Phan Huy Chú trong tập Lịch triều hiến chương loại chí khen ngợi là “thanh thoát, đáng ưa”.
Tiếc là bậc tài năng văn võ ấy lại đoản mệnh, Trần Quang Triều lâm bệnh mất khi chưa đầy 40 tuổi, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Ất Sửu năm thứ 2 (1325)… Mùa thu, tháng 8,… Tư đồ Văn Huệ vương Quang Triều chết (tuổi 39)”.
Theo Kienthuc