Nhiều năm nay tôi vẫn tự nhận mình là thằng đàn em may mắn vì có khoảng thời gian sống chung với các nhà văn Nguyễn Chí Trung, Nguyên Ngọc và nhà thơ Thu Bồn – ba tác giả viết về Tây Nguyên đều có những tác phẩm xuất sắc đóng góp lớn cho nền văn học cách mạng Việt Nam.
Nhà thơ Thu Bồn và nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát. |
Nhà văn Nguyễn Chí Trung và nhà văn Nguyên Ngọc không chỉ là nhà văn mà còn là những cán bộ cao cấp của Đảng trong thời chiến cũng như thời bình. Riêng đối với nhà thơ Thu Bồn, ông gần như chỉ có làm thơ viết văn và làm thơ viết văn, tự nhận mình là kẻ “đánh đu cùng dâu bể”, cái dâu bể sâu nặng ân tình đối với đồng đội, nhân dân, tổ quốc, chính nó đã tạo nên vẻ đẹp thơ ông, cái vẻ đẹp phong trần, nhuốm bụi đời vừa gian nan khúc khuỷu vừa ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn, với một lối viết hoành tráng tuôn trào, luôn luôn gắn liền với số phận đất nớc, non sông, bằng một phong cách cuồn cuộn sức sống, cuồn cuộn cảm xúc, không ngừng không nghỉ, kể từ khi xuất hiện cho đến khi mang bệnh về già. Tôi thờng gọi ông là cây kơ-rắc (cây trắc), một loài cây cho ta thứ gỗ quý hiếm vừa đẹp vừa cứng, mọc trong rừng đại ngàn của Tây Nguyên, đặc biệt cái lõi của nó mang những vân hoa như mây như gió mà cứng như thép mà mềm như lửa. Cá tính của Thu Bồn cũng thế: cũng cứng như thép, cũng mềm như lửa. Ông là một mẫu người được tôi luyện như thép đã tôi, như lõi cây trắc càng chôn xuống đất càng tươi roi rói, không mối mọt nào xông được. Ở với ông, chơi với ông, “đánh đu” với ông đến rốt ráo, đến tận cùng cuộc chơi, cuộc sống và chiến đấu không mấy người theo được, ngoài nhà văn Nguyễn Chí Trung và nhà phê bình văn học Ngô Thảo. Hai ông, một trước, một sau, đến với Thu Bồn, hay nói đúng hơn, sống với Thu Bồn như thể cuộc đời Thu Bồn được thế. Thu Bồn bạn bè trăm ngả bốn phương, nhưng không phải vì thế mà ông không có “trọng điểm”. Ông thương yêu nhà thơ Ngô Thế Oanh, nhà văn Thái Bá Lợi, nhà thơ Thanh Thảo, và nhà thơ Trần Vũ Mai như là những thằng bạn cùng trang lứa, những thằng em trong cuộc đời. Bao nhiêu cuộc uống “long trời lở đất” ở ngôi nhà số 1B Ba Đình (Đà Nẵng), và cũng từ nơi đây, bao nhiêu bài thơ hay của các nhà thơ một thời chung sống được ra đời. Tôi đã từng được “xem” anh Thu Bồn sáng tác trờng ca “Ba Zan khát” sau chuyến về lại Tây Nguyên, và cũng được “xem” nhà văn Nguyễn Chí Trung đọc, cắt và chỉnh đốn, biên tập cái trường ca đầy những ưu điểm và đầy cả những “khuyết điểm” này. Thu Bồn viết như không thể không viết. Còn Nguyễn Chí Trung đã cắt, như không thể không cắt! Cái sự “viết” và cái sự “cắt” ấy tạo nên vẻ đẹp lộng lẫy của thiên trường ca mà có lần anh Tượng, công vụ của cơ quan, một dũng sĩ giệt Mỹ đã nói đùa với Thu Bồn, tất nhiên là có tôi được nghe rằng: “Ba Zan khát” là “Ba Zan cắt”. Thu Bồn không những không buồn mà ông nói tỉnh queo: “… má! Ổng cắt ngon đó mầy!”.
Vợ chồng nhà thơ Thu Bồn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, nhà văn Ngô Thảo.
Thế đó. Thu Bồn bề ngoài có vẻ hùng hổ, ngang tàng, nhưng bên trong ông rất hiền từ, phục thiện, cởi mở và thơm thảo. Bản tính ông lúc nào cũng hiếu động, mà hành động của ông tuyền hành động mạnh! Rất ít khi thấy Thu Bồn yên tĩnh. Anh Ngô Thảo có lần bảo tôi: Khoảng cách giữa hai trận đánh, Thu Bồn làm thơ. Khoảng cách giữa hai đợt tránh bom pháo, Thu Bồn làm thơ. Thu Bồn làm thơ khi đang hành quân, khi đang yêu, khi đang đói, khi đang say và cả khi đang nhọc nhằn như say mê đào đất, khuân đá làm nhà. Thu Bồn làm thơ khi bán xe, bán nhà, tiêu tiền, làm lịch. Thu Bồn làm thơ khi bán lịch. Thu Bồn làm thơ khi làm sách, bán sách, bán thơ. Thu Bồn làm thơ khi lên rừng, xuống biển, về nhà; ở đâu Thu Bồn cũng vui bạn vui bè, hết mình vui chơi, hết mình làm việc với một nguồn cơn: “Con yêu từng hạt bụi đau buồn của Mẹ”, và cả với một ý chí lạ lùng: “Lấy kiên nhẫn làm bữa ăn thầm lặng”. Vui chơi hay làm việc gì, kể cả viết tiểu thuyết, kể cả việc chẳng ra việc gì, thực ra cuối cùng rồi cũng chỉ để nuôi thơ, mới đầu khởi nguồn từ quê hương, Mẹ Đất:
Tôi không khóc nhưng vẫn trào nước mắt
Con đã về đây với mẹ – Mẹ quê hương.
Và:
Sông Thu Bồn ơi! Ta nghe người đương thở…
(Hôn mảnh đất Quê Hương)
Rồi đến:
xưa kia tráng sĩ hề da ngựa
ta nay uống cạn mấy rừng mưa
và:
bao năm gối núi đầu hoá đá
tiếng hát từng rung Ngũ Giác Đài
Rồi:
độc huyền tráng sĩ xa ca cẩm
ta ôm xích đạo gãy vòng cung
(Hành phương Nam)
Thế mà dâu bể cuộc đời có lúc cũng làm cho
tráng sĩ mềm lòng, đúng hơn, là não cả lòng:
lấy khăn mà gói bơ vơ
tay cầm nước mắt bao giờ sang sông?
(Mong em về trước cơn mưa)
Không phải là Thu Bồn, không ai viết được những câu thơ hồn nhiên và chân chất, rộn rã và hiền từ nhưng quyết liệt và táo bạo đến thế này:
anh về xé một buồng cau
bắc thang lên hỏi cho mau ông trời
bay lên vũ trụ anh mời
những vì tinh tú cùng thời với anh.
Mà thực ra chỉ để:
rồi xin ở lại cõi trần
làm thơ nhóm bếp đỡ đần cho em
(Ngôi sao lạc loài)
Thơ Thu Bồn gắn liền cùng thời đại là thế. Ở thời điểm nào ông cũng có những trường ca hay, những bài thơ hay, những câu thơ cực hay. Thời cơ chế thị trường ông viết mới thật làm sao, mới đáng yêu và giản dị làm sao:
mặt trời ngủ em tôi đi
em không bán lịch lấy gì nuôi thơ?
Thêm nữa:
nhà tôi thung lũng mù sương
ai chê cũng đón ai thương cũng mời
Chủ tịch nước trao bằng Giải thường Hồ Chí Minh của nhà thơ Thu Bồn cho con trai nha thơ Thu Bồn.
Thu Bồn là thế. Ông không vuốt ve cuộc đời, không vuốt ve câu thơ, ông không cố tình làm lạ chữ. Tâm hồn Thu Bồn mở rộng đa đoan vậy nên mới có khi nào được bình yên đâu, dù lúc say sưa sung mãn nhất: “Đêm nay mưa ngược lên trời/ một cơn động đất giữa lời em xa”. Và ông thật thà thú nhận:
“Anh yêu em giống con bò đeo chiêc ách
nên trọn đời tiếng rống vẫn còn cong”.
Lúc bình tĩnh ông cũng ví von:
“Linh hồn của đá là mây
linh hồn của đất là cây xanh rờn
phần con người có cô đơn
phần hoa đẹp có hương thơm không lời”.
Và:
“Ta cũng là trăng luôn mắc lưới
vớt lên ướt hết nửa cuộc đời
đêm đêm hong gió trên triền núi
gọi nắng mai lên vá lại trời”
Vá lại trời!
Đó mới thật là Thu Bồn lắm thay
Thu Bồn là nhà thơ của núi rừng Tây Nguyên, điều ấy không cần phải bàn. Vào những năm đầu thập niên Sáu mươi của thế kỷ trước, ông đã có mặt ở chiến trường này và những bài thơ đầu tiên ông viết cũng về vùng đất này. Cũng những năm đó, ở ngoài Bắc cuộc sống khá êm đềm và sôi động trong hoà bình với các phong trào thi đua yêu nước xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa non trẻ và tươi đẹp. Nhưng ở trong miền Nam thì cuộc sống của nhân dân chìm ngập trong một không khí đen tối chưa từng có với những đạo luật tố Cộng, diệt Cộng, giết lầm hơn bỏ sót, đặc biệt trước đó luật 10/59 của chế độ Ngô Đình Diệm với lưỡi lê và máy chém kéo khắp hang cùng ngõ hẻm, khiến nhiều cán bộ cách mạng ở miền Trung bị đánh bật lên miền rừng Tây Nguyên. Thu Bồn chính là một thiếu sinh quân, một chiến sĩ trẻ trung nhưng dạn dày kinh nghiệm sống và chiến đấu trong các phong trào cách mạng của Tây Nguyên thời kỳ đó. Và trường ca “Bài ca chim Chơ Rao” được ra đời cũng quyết liệt và hồn nhiên như chính Thu Bồn có mặt sớm cùng nhân dân đánh giặc. Nó được viết ra từng trang, từng chương dưới ánh lửa bếp nhà sàn trong các buôn làng Tây Nguyên. Nó được cùng tác giả tham gia những trận đánh và những lần chống bố ráp của quân thù, và sau đó được “hành quân” theo bước chân của nhà thơ Thanh Hải đi bộ ra Bắc, về tới báo Văn Nghệ, ngay lập tức “Bài ca chim Chơ Rao” được in trang trọng thành một tờ phụ trương, nhanh chóng trở thành một hiện tượng mới của văn học. Có thể nói trường ca “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn đã đánh thức đúng lúc một thể loại văn học nhiều năm trước đó gần như bị bỏ quên. Nó được đón nhận nồng nhiệt không chỉ đối với giới sáng tác mà ngay lập tức, nó được giới trí thức trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên vô cùng ngưỡng mộ. Hai nhân vật chính của trường ca là Hùng và Rin nhanh chóng được biết đến như một biểu tượng của tinh thần đoàn kết Kinh-Thượng. Biểu tượng của ý chí chiến đấu đến cùng chống quân xâm lược của nhân dân ta.
Đối với Thu Bồn, ông viết như một nhu cầu sống. Trường ca hay thơ trữ tình, tiểu thuyết hay truyện ngắn, tất cả đều do nhu cầu của đời sống bản thân, chính vì thế cảm xúc thơ ông lúc nào cũng tươi, cũng mới. Mọi ý tưởng, mọi ý đồ kết cấu đều được cảm xúc đưa đón, không nề hà câu nệ. Ông quan niệm trường ca là một toà lâu đài thơ, vì vậy người viết trường ca cũng phải là một kiến trúc sư thiết kế nên toà lâu đài đó. Ông lại cho rằng, “vật liệu” làm nên trường ca cũng phải khác các thể loại khác, mặc dù “vật liệu” ấy vẫn là ngôn ngữ. Ngôn ngữ có thể làm nên tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ dài, diễn ca, nhưng ở trường ca nó vẫn phải khác với ngôn ngữ làm nên thơ dài, truyện thơ và diễn ca. Cũng như gạch ngói, gỗ đá đều có thể làm nhà, làm lán trại, nhưng gạch ngói đá gỗ làm lâu đài cũng có khác so với gỗ làm trại lán. “Sự khác nhau đó là do tính tất yếu của nội dung công trình khắt khe đòi hỏi chứ không phải do ý muốn của một ai”. Ông nhấn mạnh: “Trường ca là một toà lâu đài của thơ ca, là một kiến trúc tổng hợp của thơ ca”.
Ông luôn luôn có ý thức về cấu trúc tác phẩm của mình, mặc dù cái cấu trúc ấy được hình thành thông qua nguồn cảm xúc chắt ra hay bung phá ra đều từ sự va chạm giữa tình cảm cá nhân với tình cảm cộng đồng. Ông nuôi dưỡng cảm xúc nghệ thuật của mình bằng chính nguồn sống của trái tim nồng nhiệt của ông đối với Đảng, với nhân dân. Ông quan niệm, cảm xúc cũng là một loại “vật liệu” làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nghệ thuật, nhưng nó là một thứ “vật liệu” đặc biệt, một thứ “vật liệu” chỉ xuất phát từ trái tim nghệ sĩ. Người nghệ sĩ càng sống chân thành, tận tâm tận lực với trách nhiệm công dân của mình, với tình thương yêu gia đình, người thân, bạn bè, quê hương, đồng đội, thì cảm xúc càng mạnh mẽ. Quan niệm ấy ta thấy rõ nhất trong bài thơ “Gởi lòng con đến cùng Cha”. Trong tất cả những bài thơ viết sau khi Bác mất, theo tôi, bài “Gởi lòng con đến cùng Cha” là bài thơ hay nhất. Nó hay nhất không phải vì tác giả có ý tưởng gì mới mẻ, có cách thể hiện gì cao sang, độc đáo, hoặ cthống thiết, hoặc cứng cỏi mà chỉ bởi nó chân thành, mộc mạc, tự nhiên, tự đáy lòng tác giả, tự đáy lòng người dân đối với lãnh tụ. Từng câu thơ, từng lời thơ nếu “trích ngang” ta sẽ thấy thậm chí nó còn cũ, còn thô, nhưng cái “cũ” ấy, cái “thô” ấy mới chính là tấm lòng tác giả, và cũng chính là tình cảm của nhân dân miền Nam:
“… Tiếc rằng trước lúc chia ly
Con cha được thấy dáng đi của người
Hẳn trong đôi mắt sáng ngời
Có nguyên vẹn một khoảnh trời phương Nam…”
Trong cuộc sống Thu Bồn là một ngời đa đoan, mẫn cảm. Cái đa đoan mẫn cảm của một trang hiệp sĩ, một chiến sĩ trung thành, một người con hiếu thảo, nhiều khi thấy ông vi vu, lại có lúc thấy ông đơn độc, ông ở đâu cũng có bạn, ông đến đâu cũng quyến rũ đợc tình cảm của nhiều người bằng sức mạnh của chân tình, của sự nhiệt tâm sôi nổi. Đằng sau những cuộc phiêu lưu là trái tim nặng nợ với đời, là nỗi buồn nhân thế, là tình thương yêu không bến bờ không neo đậu. Bất kỳ trang viết nào của Thu Bồn chúng ta đều thấy cái nhiệt tâm đến hết lòng ấy của ông. Ông là ngời không chờ cảm xúc mà cảm xúc luôn luôn chờ ông sẵn để sẵn sàng cùng ông vào cuộc. Ông cùng với trờng ca và thơ và chiếc ba lô và bộ quân phục và cây bút và cây súng đi hết chặng đờng chống Mỹ thăng trầm của đất nước, cho đến tận bây giờ. Ở chặng đường nào ông cũng có những cái mốc đáng kể, kể cả trường ca và thơ ngắn. Thơ ông rất thời sự và cũng không vì tính thời sự mà thời gian dễ dàng làm lu mờ đi những gì ông để laị. Riêng đối với Tây Nguyên, cho tới bây giờ, chưa thấy một nhà thơ nào viết được hay và nhiều như ông.
Nhà thơ Thu Bồn
Ông yêu Tây Nguyên từ trong máu lửa, từ trong sống còn của cuộc chiến tranh. Tây Nguyên là một kho báu văn hoá dân gian, đặc biệt là một kho báu khổng lồ trường ca. Đi tới buôn làng nào ta cũng gặp các nghệ nhân hát khan (hát kể) bằng thơ. Họ có thể hát kể những câu chuyện bi tráng diễn tả sức mạnh phi thường của các trang anh hùng dân tộc mình đánh lui thần linh, quỷ dữ, đánh bại kẻ thù xâm lăng hết ngày nọ qua ngày kia, bên đống lửa, bên ché rượu cần và bên những ngời thân trong cộng đồng làng rừng. Thu Bồn là người trai Kinh, là anh bộ đội Boók Hồ, là nghệ sĩ của nhân dân mỗi khi nhân dân vui hội hè, ông hoà nhập vào cuộc sống của bà con dễ dàng nh chính ông đợc sinh ra và lớn lên từ buôn làng này. Dáng vóc ông to cao lực lưỡng nhưng con ngời ông lại hiền lành, dễ thương. Ông giỏi chặt cây làm lán; ông giỏi kiếm măng, kiếm nấm; ông giỏi nấu ăn, say sa làm đồ ăn tiếp bạn, tiếp khách. Ông thích tụ tập bạn bè, đọc thơ, tán dóc. Ông yêu bạn thương bạn như thể thương thân. Đừng thấy ông to tiếng với nhà văn Nguyễn Chí Trung, bạn ông, mà tưởng hai người kiểu này không còn gì vói nhau nữa. Tôi đã được thấy cảnh hai ông cãi nhau và cả cảnh sau cuộc “đụng độ” ấy của hai người. Trời ạ, thương nhau đến thế là cùng: cả hai ông đều khóc!
Thu Bồn đến ở căn phòng nào, chỉ trong thời gian ngắn, căn phòng ấy biến thành không gian của Tây Nguyên. Ông say sưa với những cuộc cải tạo phòng, nhà. Ông trần lưng khuân đất đá, chặt, đẽo ghế bàn, sửa sang bếp núc. Ông không phải ngời có lối sống lập dị, nhng nhìn dàn thớt dài hàng chục chiếc nh dàn chinh chiêng Tây Nguyên từ cái to nhất đến cái nhỏ nhất treo trên tờng bếp nhà ông, ta không thể không thán phục con ngời có nhiều ý tưởng độc đáo và yêu Tây Nguyên đến kỳ lạ này. Mấy năm gần đây, mỗi lần Thu Bồn ra Hà Nội, bên ông bao giờ cũng là nhà phê bình Ngô Thảo, bên anh Ngô Thảo và tất nhiên, còn có rất nhiều bạn bè văn nghệ khác. Ông bao giờ cũng trở thành tâm điểm chú ý của mọi ngời. Ông đọc thơ, hát thơ, ngâm thơ hồn nhiên, mạnh mẽ, hết mình. Ông là ngời luôn luôn sống quanh bạn bè, sống cùng bạn bè. Suốt cả cuộc đời ông là một cuộc hành quân dài từ quê hương đất Quảng đến Tây Nguyên và từ đó đến mọi miền của đất nước. Ông ra bắc vào Nam lên rừng xuống biển, nơi đâu cũng rộn rã bạn bè. Kể cả khi ông tới Tây bán cầu đọc thơ cùng các nhà văn Á Phi, sau những ngày vui nhận giải văn học Lotus, về nước, ông toàn kể chuyện về bạn bè đủ các màu da. Ông đến Ăng Ko hát cùng bè bạn, thánh thần, sau cuộc chiến đánh bại bọn diệt chủng phi nhân tính của đất nước này. Và ông làn thơ. Làm thơ và kết bạn. Kết bạn và làm thơ. Cuộc đời của nhà thơ Thu Bồn chính là bản du ca về tình bạn và tình ngời. Thơ của Thu Bồn hiện đại ngay từ trong cảm xúc. Hãy nhớ lại thời đầu chống Mỹ, thơ ca của ta, dòng cảm xúc chủ yếu là lòng yêu quê hương đất nước, căm thù giặc chia cắt non sông thành hai miền.
Thu Bồn viết:
“… ấp chiến lược đám mây đen che núi
Lòng xót xa quặn cháy mái nhà rơm
Mẹ lom khom vịn vào vai núi
Chúng con đi mờ khuất dãy Trường Sơn
(Hôn mảnh đất quê hương – l962)
Và đây là không khí Tây Nguyên nói riêng, miền Nam nói chung trong thời điểm cam go nhất của lịch sử.
“… Mây đen đè nặng trăng không sáng
Loang lổ trời đêm máu tím bầm
Rặng núi nặng nề ôm mây ngủ
Nghe vẳng phơng xa tiếng sấm gầm…”
(Bài ca chim Chơ Rao – l963)
Rồi:
“… Cô em ngồi vót chông tre
Vót cả nắng trưa hè
ửng hồng lên đôi má”
(Tre xanh 1964)
Nếu cứ lần theo những câu thơ hay, những đoạn thơ hay – tính theo thời gian, theo bước chân hành quân oai hùng của ngời chiến sĩ cách mạng có tên là Hà Đức Trọng, cả những đoạn đời thăng trầm cùng những câu thơ hào sảng và cũng rất trữ tình của nhà thơ Thu Bồn, chắp nối lại, không cần quá cầu kì về kết cấu, tôi dám chắc chúng ta sẽ được một trường ca đặc sắc, một trường ca vừa bi ai hùng tráng, vừa da diết tình người. Thơ Thu Bồn luôn luôn gắn cùng thời cuộc, kể cả thơ tình yêu, thơ trữ tình riêng đầy cá tính của ông:
“…Trời sương đã xuống tóc anh ớt đầm
em đến hong khô bằng năm ngọn lửa của bàn tay.”
Và thuở trai trẻ của thế hệ ông:
“…Cả một thời tuổi trẻ kéo nhau đi
sấm sét ở lại tìm thi sĩ
miền đất hứa đau buồn chung thủy
thơ tuôn trào và núi lửa đang phun.”
Khi tình yêu đến ông thật thà:
“Môi em mùa xuân
mắt em mùa hè
tóc em mùa thu
xin tim em đừng phải mùa đông.”
Ông si tình:
“Em đến rồi em lại đi
Biến anh thành gã Trương Chi không đàn.”
Và ông hết mình:
“Ngày mai tôi hát về nguồn
Gạn cho trong hết nỗi buồn của em.”
Ông hiền lành vị tha:
“Cầu trời sóng gió bình yên
em về xin cứ thiên nhiên mà về.”
Và ông tuyên bố:
“Hộ khẩu tôi nhập cuộc với tình yêu
Thành phố hỡi! Đừng gọi tôi là tạm trú.”
Ông dễ thương:
“Nếu không được làm sông cũng xin cho làm suối
trọn đời róc rách giữa hồn em.”
Ông quyết liệt dữ dội:
“Tình yêu là khí giới của tôi
chiếm tất cả luỹ đồn em dựng.”
Không chỉ một bài, hai bài, một câu hai câu, mà có thể nói, có hàng trăm hàng ngàn câu hay như vậy:
“em – con ngựa chứng không cương
anh – tên kị mã vết thương đầy người.”
Ông tự nhận cuộc đời ông “đánh đu cùng dâu bể” mặc dù vẫn kiên quyết:
“Muôn đời đẹp nhất là thơ
trong là nước mắt – ngu ngơ là tình
bài thơ ta viết cho mình
là bài thơ của mối tình ngu ngơ”
Bây giờ Thu Bồn đã mất. Đúng hơn, Thu Bồn đã được yên tĩnh. Hơn sáu mơi năm hiện diện cùng thăng trầm của quê hương, đất nước, bấy nhiêu năm tráng sĩ hề…dâu bể, ông đã về Trời. Mọi tai ương nghiệp chướng cùng những vần thơ đầy khát vọng bình yên của ông, ông để lại cho đời. Ông là nhà thơ hàng đầu trong số đông đảo các nhà thơ thời chống Mỹ.
TRUNG TRUNG ĐỈNH